Quay lại
8

Luật địa phương mẫu

Nhảy đến phần
Luật chính thức
In phần này
8
Luật địa phương mẫu
8
Luật địa phương mẫu
Luật địa phương là sự thay đổi, điều chỉnh của một điều luật hoặc là một điều luật mới thêm vào mà Hội đồng áp dụng cho một giải đấu hoặc cho cuộc chơi thông thường hàng ngày. Hội đồng có trách nhiệm trong việc quyết định có sử dụng Luật địa phương nào hay không và đảm bảo chúng nhất quán với các hướng dẫn ở Phần 8(1). Luật địa phương không nhất quán với các hướng dẫn này là các Luật địa phương trái phép, các vòng đấu với các Luật địa phương đó sẽ không được xem là đã được chơi đúng luật golf. Nếu Hội đồng sử dụng Luật địa phương không nhất quán với mục đích của Luật địa phương đó, nên tham khảo cơ quan quản lý handicap để xem xét là các bảng điểm mà người chơi nộp có được chấp nhận để tính handicap hay không. (1) Các hướng dẫn về việc thiết lập Luật địa phương Trước khi thiết lập một Luật địa phương, Hội đồng nên nghiên cứu các hướng dẫn sau: a. Luật địa phương có trạng thái giống như Luật golf ở giải đấu hoặc sân đó. b. Mặc dù Hội đồng có quyền áp dụng Luật địa phương để đáp ứng một yêu cầu cụ thể của sân golf hoặc giải đấu, Hội đồng chỉ nên sử dụng Luật địa phương để giải quyết các tình huống được mô tả ở phần mục đích của Phần 8. c. Có thể áp dụng toàn bộ một Luật địa phương mẫu hoặc có thể dựa vào nó để viết một Luật địa phương khác. Tuy nhiên, nếu Hội đồng thay đổi từ ngữ của một Luật địa phương mẫu để đáp ứng một yêu cầu cụ thể của sân golf hoặc giải đấu, cần đảm bảo rằng các thay đổi đó nhất quán với mục đích của Luật địa phương mẫu đó. Ví dụ của các thay đổi Luật địa phương mẫu thỏa mãn yêu cầu này là: d. Nếu không có thông báo khác, mức xử phạt cho vi phạm một Luật địa phương nên là hình phạt chung. e. Hội đồng không được sử dụng một Luật địa phương để miễn trừ hoặc điều chỉnh một điều luật chỉ vì Hội đồng muốn điều luật đó khác đi. Ví dụ của Luật địa phương không được phép:
    • Cho phép sử dụng gậy không hợp chuẩn.
    • Tăng thời gian tìm bóng từ ba phút lên năm phút.
    • Cho phép người chơi có nhiều hơn một caddie.
f. Luật 1.3c(3) quy định Hội đồng không có quyền áp dụng hình phạt khác với những gì luật định. Do đó, Hội đồng không được sử dụng Luật địa phương để miễn trừ, điều chỉnh hoặc xử phạt. Ví dụ của Luật địa phương không hợp lệ:
    • Miễn phạt đối với việc đánh bóng từ khu vực phát bóng sai nếu người chơi sửa lỗi trong vòng một phút từ khi đánh bóng.
    • Giảm hình phạt cho việc thực hiện cú đánh với gậy không hợp chuẩn từ truất quyền thi đấu xuống hình phạt chung.
    • Xử phạt một gậy đối với người chơi không thông báo cho một người chơi khác là họ sẽ nhấc bóng để xác định.
g. Khi một Luật địa phương được viết dựa vào Luật địa phương mẫu, Hội đồng có thể nhờ The R&A hỗ trợ minh giải Luật địa phương đó. Nhưng nếu Hội đồng tự viết Luật địa phương, Hội đồng phải tự minh giải nó. h. Nếu một Luật địa phương được sử dụng cho một tình huống tạm thời, nên bỏ nó đi sớm nhất có thể khi mà tình huống đó không cần Luật địa phương nữa. i. Các Luật địa phương mẫu trong Phần 8 bao gồm các tình huống và vấn đề thường phát sinh, do đó cần phải có Luật địa phương mẫu. Thỉnh thoảng, sẽ cần một Luật địa phương mà không có mẫu sẵn. Trong tình huống đó, Hội đồng nên viết Luật địa phương một cách rõ ràng và đơn giản. Nhưng quan trọng hơn, Luật địa phương đó nên nhất quán với mục đích của Luật golf và Luật địa phương mẫu. Ví dụ: cho phép giải thoát khỏi vết đánh bóng (divot) trên fairway là không nhất quán với nguyên tắc chính “sân thế nào thì chơi thế đấy” và “bóng nằm thế nào thì đánh thế đó”, như đã được quy định ở mục đích của Luật 1. Nếu Hội đồng tin rằng họ cần có một Luật địa phương dành cho các điều kiện đặc thù (mà có thể gây ảnh hưởng đến cuộc chơi), nhưng Luật địa phương đó lại không có trong các hướng dẫn này, Hội đồng nên xin tư vấn từ The R&A. (2) Thông báo về Luật địa phương Hội đồng nên đảm bảo là người chơi có thể tiếp cận các Luật địa phương qua các phương thức khác nhau như bảng điểm, Thông báo cho người chơi hoặc một phương tiện thông tin điện tử khác. Khi chỉ có bản rút gọn của Luật địa phương mẫu, như là trên mặt sau của bảng điểm, Hội đồng nên đảm bảo là bản đầy đủ của Luật địa phương đó có sẵn và có thể được tiếp cận dễ dàng, như là trên một bảng thông báo hoặc trên một website.
A

Ranh giới sân và ngoài biên

A-1
Các phương pháp phổ biến để xác định ranh giới sân
Mục đích của luật. Hội đồng có thể quy định ranh giới sân bằng nhiều cách khác nhau, nên phần này chỉ cung cấp một vài ví dụ, chứ không phải là một danh sách đầy đủ, các Luật địa phương đó. Nguyên tắc là phải rõ ràng và cụ thể khi quy định ranh giới sân trong Luật địa phương. Cách quy định ranh giới sân phổ biến nhất là sử dụng các cọc, vạch kẻ sơn hoặc các hàng rào có sẵn. Không cần phải mô tả tất cả các ranh giới sân trong Luật địa phương, nhưng sẽ hữu ích khi mô tả phương pháp sử dụng để xác định chúng. Nên cung cấp các thông tin cụ thể khi mà ranh giới không thể được nhìn thấy một cách rõ ràng và khi mà phương pháp xác định chúng là ít phổ biến hơn. Một vài ví dụ:
  • “Ngoại biên được xác định bởi [phương pháp xác định ngoại biên, như là cọc, đường kẻ màu trắng và hàng rào].”
  • "Ranh giới bên trái của hố số [hố] được quy định bởi mép [vạch kẻ/ chấm] sơn trắng phía trong sân] [vị trí, như là đường đi]."
  • "Khu vực bảo dưỡng ở giữa hố số [hố] được xác định bởi hàng rào xung quanh là khu vực ngoại biên."
Xem Phần 2A5B(1) để biết thêm thông tin về việc quy định OB.
A-2
Quy định ranh giới sân khi sử dụng tường, đường hoặc các vật thể khác
Mục đích của luật. Định nghĩa “ngoại biên” nêu rõ là khi ranh giới sân được quy định bằng một bức tường, con đường hoặc các vật thể khác, Hội đồng nên xác định rõ ranh giới đó. Tùy vào đặc điểm hoặc điều kiện của một bức tường, sẽ hợp lý khi quy định OB ở bên ngoài bức tường đó hoặc sử dụng mép phía trong sân của bức tường đó làm ranh giới. Luật địa phương mẫu A-2.1 “Ranh giới sân là mép phía trong sân của [vật thể, ví dụ như bức tường hoặc con đường].” Luật địa phương mẫu A-2.2 “Bóng ở ngoài biên khi nó vượt qua [vật thể, ví dụ như bức tường hoặc con đường] xác định ranh giới sân.” Luật địa phương mẫu A-2.3 “Ranh giới sân ở hố [hố] được xác định bởi [mô tả vật thể hoặc đặc trưng].”
A-3
Xác định hàng rào ranh giới sân theo cách khác
Mục đích của luật. Khi được xác định bởi một hàng rào, ranh giới sân được quy định là đường thẳng nối các điểm trên mặt đất phía trong sân của các trụ rào (không bao gồm các trụ đỡ nghiêng), và các trụ rào đó ở ngoài biên. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm của hàng rào đó, hoặc do cây cỏ mọc xung quanh nó, Hội đồng có thể quy định hàng rào ranh giới sân theo cách khác. Lưu ý: Hội đồng không thể thay đổi cách xác định ranh giới đối với đường kẻ hoặc cọc. Luật địa phương mẫu A-3 “Bóng ở ngoài biên khi nó vượt qua hàng rào trên mặt đất (không bao gồm các trụ đỡ nghiêng) ở hố [hố].”Mục đích. Khi được xác định bởi một hàng rào, ranh giới sân được quy định là đường thẳng nối các điểm trên mặt đất phía trong sân của các trụ rào (không bao gồm các trụ đỡ nghiêng), và các trụ rào đó ở ngoài biên. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm của hàng rào đó, hoặc do cây cỏ mọc xung quanh nó, Hội đồng có thể quy định hàng rào ranh giới sân theo cách khác. Lưu ý: Hội đồng không thể thay đổi cách xác định ranh giới đối với đường kẻ hoặc cọc. Luật địa phương mẫu A-3 “Bóng ở ngoài biên khi nó vượt qua hàng rào trên mặt đất (không bao gồm các trụ đỡ nghiêng) ở hố [hố].”
A-4
OB trong sân
Mục đích của luật. Vì lý do an toàn hoặc do địa hình sân, Hội đồng có thể quy định một phần trong sân là ngoại biên ở một hố nào đó. Làm điều này để không cho người chơi, khi đang chơi hố đó, đánh đến hoặc về đó từ một nơi khác trên sân. Ví dụ như ở một hố dog-leg, có thể sử dụng OB trong sân để ngăn người chơi đánh qua fairway của một hố khác để cắt qua dog-leg đó. Tuy nhiên, do bóng chỉ OB khi nó đến nằm yên ở ngoài biên, không được phép áp dụng Luật địa phương quy định bóng OB khi nó vượt qua ranh giới sân, cho dù sau đó bóng quay lại và nằm yên trong sân. Luật địa phương mẫu A-4 “Khi đang chơi hố [hố], [vị trí] của hố được quy định bởi [mô tả phương pháp xác định OB, ví dụ như cọc màu trắng], sẽ ở ngoài biên. Các [vật thể xác định ranh giới sân, ví dụ như cọc] là vật thể xác định ranh giới sân khi chơi hố [hố]. Với tất cả các hố khác, chúng là vật cản [cố định/di dời được].”
A-5
OB khi có đường giao thông công cộng chạy xuyên qua sân
Mục đích của luật. Khi có đường giao thông công cộng chạy xuyên qua sân golf, nó thường được quy định là OB. Do đó, sẽ có khả năng là bóng được đánh từ một phía của con đường đó đến nằm yên trong sân ở phía bên kia của nó, cho dù bóng có thể đã ở ngoài biên nếu nó đến nằm yên trên con đường đó. Nếu Hội đồng tin rằng sẽ không công bằng hoặc có nguy hiểm trong các tình huống đó, có thể áp dụng Luật địa phương quy định bóng sẽ OB nếu được đánh từ một phía của con đường đó và đến nằm yên ở phía bên kia của con đường đó. Nếu một con đường chạy ngang một hố cụ thể nào đó, nơi mà người chơi thường phải đánh từ bên này qua bên kia, Hội đồng nên quy định là Luật địa phương này không được áp dụng cho con đường đó ở hố đó. Luật địa phương mẫu A-5 “Bóng ở ngoài biên khi nó vượt qua một phía của đường nhựa [vị trí con đường hoặc hố] được quy định là OB và đến nằm yên ở phía bên kia của đường đó, cho dù nếu bóng đến nằm yên ở một phần khác của sân (không OB) thuộc hố khác.”
A-6
Các cọc báo hiệu ranh giới sân
Mục đích của luật. Khi ranh giới sân được xác định bằng đường kẻ trên mặt đất, bằng rãnh đào hoặc bằng một cách khác mà không thể nhìn thấy từ xa, Hội đồng có thể cắm cọc dọc theo ranh giới đó để giúp người chơi nhìn thấy và biết về nó từ xa. Không thể di dời vật thể xác định ranh giới sân và thường thì không được giải thoát không phạt khỏi chúng, nhưng Hội đồng có thể cho phép giải thoát khỏi các cọc này thông qua Luật địa phương mẫu sau đây, trong trường hợp đó nên làm rõ tình trạng của các cọc này. Các cọc này nên được đánh dấu khác đi so với các cọc ranh giới sân thông thường khác trên sân, ví dụ như cọc màu trắng với đầu cọc màu đen. Luật địa phương mẫu A-6 “Khi ranh giới sân được xác định bởi [cách xác định, ví dụ đường kẻ màu trắng trên mặt đất], các cọc màu trắng đầu đen được cắm để giúp báo hiệu ranh giới này. Các cọc này là vật cản [cố định/di dời được].”
B

Khu vực phạt

B-1
Cách xác định các khu vực phạt
Mục đích của luật. Hội đồng có thể quy định các khu vực phạt trên sân theo nhiều cách khác nhau, nên phần này chỉ cung cấp một vài ví dụ, chứ không phải là một danh sách đầy đủ, các Luật địa phương đó. Nguyên tắc là phải rõ ràng và cụ thể khi quy định khu vực phạt trong Luật địa phương. Mặc dù cách đánh dấu ranh giới khu vực phạt phổ biến nhất là bằng cọc hoặc vạch kẻ, cũng có thể sử dụng một đặc trưng vật lý hoặc câu chữ trên Luật địa phương để xác định chúng. Chỉ làm điều này khi có thể phân biệt các ranh giới này một cách rõ ràng bằng đặc trưng hoặc ngôn từ nói trên. Một vài ví dụ:
  • “Khu vực phạt màu đỏ ở hố [hố] mở rộng và trùng với ranh giới sân.”
  • “Khu vực phạt màu đỏ ở hố [hố] được đánh dấu một bên sẽ mở rộng từ ranh giới được đánh dấu đó ra vô tận.”
  • “Tất cả các khu vực sa mạc là khu vực phạt và ranh giới của chúng là nơi giao nhau giữa cỏ và sa mạc.”
  • “Tất cả các khu vực đá dung nham là khu vực phạt.”
  • “Khi có tường đá nhân tạo bao quanh một hồ nước hoặc khu vực chứa nước, ranh giới của khu vực phạt là ranh giới bên ngoài của bức tường đó.”
Khi một khu vực phạt có khả năng liên quan đến cuộc chơi ở nhiều hố khác nhau, Hội đồng có thể quy định nó là khu vực phạt màu vàng ở một hố để giữ tính thử thách ở hố đó và quy định nó là khu vực phạt màu đỏ khi chơi tất cả các hố còn lại (bằng một Luật địa phương).
  • “Khi đang chơi hố [hố], khu vực phạt màu vàng ở hố [hố] sẽ là khu vực phạt màu đỏ.”
  • “Khu vực phạt màu vàng ở hố [hố] sẽ là khu vực màu đỏ khi chơi tất cả các hố khác.”
Xem Phần 2C5B(2) để biết thêm thông tin về việc quy định các khu vực phạt.
B-2
Giải thoát ở bờ đối diện của khu vực phạt màu đỏ
Mục đích của luật. Luật 17.1 cho người chơi lựa chọn giải thoát ngang hoặc trên-đường-thẳng-kéo-lùi-về-sau dựa vào vị trí bóng cắt ranh giới khu vực phạt màu đỏ lần cuối cùng. Tuy nhiên, trong một vài tình huống (ví dụ như khi khu vực phạt màu đỏ trùng với ranh giới sân), các lựa chọn nói trên sẽ không thực tế và do đó người chơi chỉ còn lựa chọn giải thoát gậy-và-khoảng-cách. Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương cho phép giải thoát ngang ở bờ đối diện của một khu vực phạt màu đỏ, là lựa chọn giải thoát thêm theo Luật 17.1d. Khi xem xét áp dụng Luật địa phương cho phép thêm lựa chọn giải thoát:
  • Hội đồng nên áp dụng Luật địa phương này ở các tình huống rất bất lợi cho người chơi nếu không có nó. Hai ví dụ là:
    • Khi ranh giới sân trùng với ranh giới của một khu vực phạt chạy dọc một bên ở một hố, theo đó khi bóng cắt ranh giới của khu vực phạt đó ở phía trùng với ranh giới sân, người chơi sẽ không có lựa chọn nào khác ngoại trừ đánh lại theo gậy-và-khoảng-cách.
    • Khi địa hình của khu vực phạt gây khó khăn trong việc xác định nơi bóng cắt ranh giới khu vực phạt đó lần cuối cùng, và việc giải thoát sẽ rất khác nhau khi điểm cắt ở các bên khác nhau của khu vực phạt đó. Tình huống này xảy ra khi có một khu vực phạt tương đối hẹp, với nhiều bụi cây hoặc cỏ rất cao và dày ở một phía và fairway ở phía còn lại.
  • Hội đồng nên xác định vị trí cụ thể của khu vực phạt mà Luật địa phương này sẽ được áp dụng, thay vì áp dụng nó cho toàn bộ các khu vực phạt màu đỏ trên sân. Luật địa phương này chỉ nên được sử dụng để cho phép người chơi thêm lựa chọn giải thoát ở bờ đối diện để có vị trí tốt hơn so với các lựa chọn giải thoát thông thường ở Luật 17.1d.
  • Khi có lựa chọn giải thoát này, có thể đánh dấu khu vực phạt nơi sẽ áp dụng Luật địa phương này theo cách đặc biệt, như là đỉnh cọc có màu khác, và việc đánh dấu này nên được nêu rõ trong Luật địa phương.
  • Thay vì sử dụng Luật địa phương này, Hội đồng có thể thêm vào một hoặc nhiều khu thả bóng (Drop Zone) (xem Luật địa phương mẫu E-1).
Luật địa phương mẫu B-2.1 “Nếu bóng của người chơi ở trong một khu vực phạt, bao gồm khi biết hoặc như chắc chắn là ở trong một khu vực phạt cho dù không được tìm thấy, người chơi có thể thực hiện giải thoát theo một trong các lựa chọn ở Luật 17.1d, với một gậy phạt cho mỗi lựa chọn đó. Hoặc, nếu bóng đã cắt ranh giới của khu vực phạt màu đỏ lần cuối cùng ở [hố và vị trí], là một lựa chọn giải thoát thêm với một gậy phạt, người chơi có thể thả bóng gốc hoặc một bóng khác ở bờ đối diện của khu vực phạt đó:
  • Điểm tham chiếu: Vị trí ước lượng ở bờ đối diện của khu vực phạt, có cùng khoảng cách đến hố cờ với điểm ước lượng nơi bóng gốc đã cắt ranh giới khu vực phạt màu đỏ đó lần cuối cùng, thỏa điều kiện đường thẳng nối hai điểm ước lượng này sẽ không đi ra ngoài khu vực phạt đó.
  • Kích thước của khu vực giải thoát đo từ điểm tham chiếu: Hai chiều-dài-gậy-đo, nhưng với các giới hạn sau:
  • Giới hạn của khu vực giải thoát:
    • Phải không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu, và
    • Có thể ở trong bất kỳ khu vực sân nào trừ chính khu vực phạt đó, tuy nhiên
    • Nếu có nhiều khu vực sân khác nhau trong vòng hai chiều-dài-gậy-đo từ điểm tham chiếu, bóng phải đến nằm yên bên trong khu vực giải thoát trong cùng khu vực sân với nơi mà bóng chạm mặt đất đầu tiên sau khi được thả bên trong khu vực giải thoát đó.
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu B-2.2 Luật địa phương mẫu B-2.1 được áp dụng nhưng với điều chỉnh ở đoạn thứ hai như sau: “Hoặc nếu bóng cắt ranh giới của một khu vực phạt trùng với ranh giới sân, là một lựa chọn giải thoát thêm với một gậy phạt, người chơi có thể thả bóng gốc hoặc một bóng khác ở phía bờ đối diện của khu vực phạt đó:”
B-3
Bóng dự phòng cho bóng trong khu vực phạt
Mục đích của luật. Theo Luật 18.3, người chơi không được phép đánh bóng dự phòng nếu biết hoặc gần như chắc chắn là bóng của họ ở trong một khu vực phạt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, kích thước, hình dạng và vị trí của một khu vực phạt có thể làm:
  • Người chơi không thể thấy là bóng có ở trong khu vực phạt đó hay không,
  • Trì hoãn cuộc chơi một cách vô lý nếu người chơi phải đi về phía trước để tìm bóng trước khi quay lại để đánh một bóng khác theo hình phạt gậy-và-khoảng-cách hoặc một lựa chọn khác theo Luật 17, và
  • Nếu không tìm thấy bóng gốc, sẽ biết hoặc gần như chắc chắn là nó ở trong khu vực phạt đó.
Trong các tình huống này, để tiết kiệm thời gian, Hội đồng có thể chọn điều chỉnh Luật 18.3:
  • Luật 18.3a được điều chỉnh để cho phép người chơi đánh bóng dự phòng theo Luật 17.1d(1), 17.1d(2) hoặc đối với một khu vực phạt màu đỏ, 17.1d(3).
  • Luật 18.3b18.3c được điều chỉnh để quy định khi nào bóng dự phòng đó phải hoặc có thể được đánh hoặc bị bỏ đi, như mô tả trong Luật địa phương mẫu này.
Luật địa phương mẫu B-3 “Nếu người chơi không biết là bóng của họ có ở trong một khu vực phạt ở [vị trí] hay không, người chơi có thể đánh một bóng dự phòng theo Luật 18.3 được điều chỉnh như sau: Khi đánh bóng dự phòng, người chơi có thể sử dụng lựa chọn giải thoát gậy-và-khoảng-cách (xem Luật 17.1d(1)), trên-đường-thẳng-kéo-lùi-về-sau (xem Luật 17.1d(2)) hoặc nếu là một khu vực phạt màu đỏ, giải thoát ngang (xem Luật 17.1d(3)). Nếu có một khu thả bóng (Dropping Zone) cho khu vực phạt này (xem Luật địa phương mẫu E-1), người chơi cũng có thể sử dụng lựa chọn giải thoát đó. Một khi người chơi đã đánh một bóng dự phòng theo Luật địa phương này, họ không thể sử dụng các lựa chọn khác theo Luật 17.1 đối với bóng gốc. Khi cần quyết định bóng dự phòng đó sẽ trở thành bóng trong cuộc của người chơi hoặc nếu nó phải hoặc có thể bị bỏ đi, Luật 18.3c(2)18.3c(3) sẽ được áp dụng ngoại trừ:
  • Khi bóng gốc được tìm thấy trong khu vực phạt trong vòng ba-phút. Người chơi có thể chọn:
    • Tiếp tục đánh bóng gốc từ nơi nó nằm trong khu vực phạt đó, trong trường hợp đó phải không được đánh bóng dự phòng. Tất cả các cú đánh với bóng dự phòng đó trước khi nó bị bỏ đi (bao gồm các cú đánh và gậy phạt chỉ từ việc đánh bóng đó) không được tính, hoặc
    • Tiếp tục đánh bóng dự phòng, trong trường hợp đó phải không được đánh bóng gốc.
  • Khi bóng gốc không được tìm thấy trong vòng ba-phút hoặc biết hoặc gần như chắc chắn là ở trong khu vực phạt đó. Bóng dự phòng trở thành bóng trong cuộc của người chơi.
Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung."
B-4
Quy định các khu vực chứa nước mở là một phần của khu vực chung
Mục đích của luật. Nếu một khu vực chứa nước mở mà không thường có nước (như là rãnh thoát nước hoặc khu vực thoát nước thường khô ráo trừ vào mùa mưa), Hội đồng có thể quy định khu vực đó là một phần của khu vực chung. Hội đồng có thể chọn đánh dấu khu vực chứa nước như thế là khu vực phạt vào khoảng trong thời gian nó có chứa nước, hoặc quy định nó là một phần của khu vực chung, khi đó bất kỳ vùng nước đọng nào bên trong nó sẽ là nước đọng tạm thời. Tuy nhiên, các khu vực thường xuyên chứa nước nên được đánh dấu là khu vực phạt quanh năm. Xem Luật địa phương mẫu F-20 để biết khi nào có thể quy định một khu vực chứa nước mở là một điều kiện sân bất thường. Luật địa phương mẫu B-4.1 “[Mô tả khu vực chứa nước cụ thể và vị trí của nó, ví dụ như rãnh đào ở hố 6] là một phần của khu vực chung và không phải là một khu vực phạt.” Luật địa phương mẫu B-4.2 “Tất cả các [mô tả khu vực chứa nước cụ thể và vị trí của nó, ví dụ như rãnh thoát nước bê tông] là một phần của khu vực chung và không phải là một khu vực phạt.”
B-5
Quy trình giải thoát đặc biệt khi khu vực phạt ở cạnh bẫy cát
Mục đích của luật. Có một số nơi mà ranh giới của một khu vực phạt màu đỏ ở rất gần một bẫy cát, nên khi người chơi thực hiện giải thoát ngang theo Luật 17.1d(3), họ sẽ phải thả bóng bên trong bẫy cát đó. Trong trường hợp đó, Hội đồng có thể cho người chơi thêm một lựa chọn giải thoát, với một gậy phạt, để thực hiện giải thoát trong một khu thả bóng (dropping zone) trong khu vực chung. Luật địa phương mẫu B-5 “Luật địa phương này cho phép sử dụng khu thả bóng (dropping zone) như là một lựa chọn giải thoát thêm khi:
  • Bóng của người chơi ở trong khu vực phạt màu đỏ ở [vị trí], bao gồm khi biết hoặc gần như chắc chắn là ở trong khu vực phạt đó cho dù không được tìm thấy, [và nếu có]
  • [mô tả nơi bóng phải cắt ranh giới khu vực phạt đó, như là ở giữa hai cây cọc đã được đánh dấu một cách khác biệt].
Trong trường hợp này, người chơi có các lựa chọn giải thoát sau, vớimột gậy phạtcho mỗi lựa chọn:
  • Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo một trong các lựa chọn ở Luật 17.1d, hoặc
  • Là lựa chọn thêm, người chơi có thể thả bóng gốc hoặc một bóng khác trong khu thả bóng (dropping zone) gần nhất, nhưng không gần hố cờ hơn, với nơi bóng cắt ranh giới khu vực phạt đỏ này lần cuối cùng. Khu thả bóng là một khu vực giải thoát theo Luật 14.3.”
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
C

Bẫy cát

C-1
Xác định ranh giới của bẫy cát
Mục đích của luật. Khi khó xác định ranh giới của bẫy cát do sự bào mòn, hoặc do có sự trộn lẫn giữa bẫy cát và các khu vực cát trong khu vực chung hoặc trong một khu vực phạt, Hội đồng có thể cần phải quy định ranh giới của bẫy cát đó. Một vài ví dụ:
  • “Ranh giới của bẫy cát [mô tả vị trí, ví dụ: bên trái green hố 15] được quy định bởi mép ngoài cùng trên mặt đất của các cọc màu [màu sắc], và cọc sẽ ở trong bẫy cát đó. Các cọc này là vật cản di dời được.”
  • “Ranh giới của bẫy cát [mô tả vị trí] được quy định bởi vạch kẻ sơn màu [màu sắc] trên cát.”
  • “Ranh giới của bẫy cát bên phải [mô tả vị trí, hố] được quy định bởi các rãnh viền trong cát.”
  • “Tất cả các khu vực cát đã được chuẩn bị (như là đã được cào) là một phần của bẫy cát.”
Xem Phần 2D5B(3) để biết thêm thông tin về bẫy cát.
C-2
Thay đổi tình trạng của khu vực cát
Mục đích của luật. Theo định nghĩa “bẫy cát”, Hội đồng có thể quy định một khu vực cát được chuẩn bị là một phần của khu vực chung hoặc quy định một khu vực cát không được chuẩn bị là bẫy cát thông qua Luật địa phương. Luật địa phương mẫu C-2.1 Quy định một khu vực cát được chuẩn bị là một phần của khu vực chung: “Khu vực cát ở [mô tả chi tiết vị trí hoặc hố] là một phần của khu vực chung và không phải là bẫy cát.” Luật địa phương mẫu C-2.2 Quy định một khu vực cát không được chuẩn bị là một bẫy cát: “Khu vực cát ở [mô tả chi tiết vị trí hoặc hố] là bẫy cát và không phải là một phần của khu vực chung.”
C-3
Xác định tình trạng của các vật liệu giống cát khi vật liệu đó không ở trong bẫy cát
Mục đích của luật. Các bẫy cát trên sân đôi khi chứa các vật liệu giống cát, như là vỏ sò nghiền hoặc bụi dung nham. Các vật liệu đó được xem là cát khi áp dụng Luật 12. (Xem định nghĩa của “bẫy cát”). Để nhất quán, Hội đồng có thể xem các vật liệu này là cát ở tất cả các vị trí khác trên sân. Luật địa phương mẫu C-3 “[Mô tả vật liệu như là vỏ sò nghiền hoặc bụi dung nham] được sử dụng trong các bẫy cát được xem là cát khi chúng ở trong một bẫy cát hoặc ở chỗ khác trên sân. Nghĩa là những vật liệu này không phải là vật thể tự nhiên rời. Người chơi không được cải thiện điều kiện ảnh hưởng đến cú đánh bằng cách loại bỏ các vật liệu này, trừ khi chúng ở trên khu vực gạt bóng (xem Luật 13.1c(1)).”
C-4
Quy định bẫy cát tập là một phần của khu vực chung
Mục đích của luật. Khi các bẫy cát ở trong sân được sử dụng cho việc tập luyện, chúng vẫn là bẫy cát theo luật. Tuy nhiên, các bẫy cát tập này có thể ở trong tình trạng không tốt do người chơi thường xuyên không cào cát. Nếu Hội đồng muốn cho phép người chơi được giải thoát, có thể quy định hoặc đánh dấu các bẫy cát này là mặt sân đang sửa chữa, theo đó chúng sẽ là một phần của khu vực chung, và người chơi có thể giải thoát không phạt ra bên ngoài chúng. Luật địa phương mẫu C-4 Bẫy cát tập ở [mô tả vị trí] là mặt sân đang sửa chữa và là một phần của khu vực chung. Được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1b.”
D

Khu vực gạt bóng

D-1
Xác định ranh giới của khu vực gạt bóng
Mục đích của luật. Đôi khi rất khó cho người chơi trong việc xác định là bóng của họ có ở trên khu vực gạt bóng hay không do không có sự khác biệt rõ ràng giữa chiều cao của cỏ ở trên và ở ngoài khu vực gạt bóng. Trong các trường hợp này, Hội đồng có thể quy định ranh giới của khu vực gạt bóng bằng các vạch kẻ hoặc chấm sơn. Luật địa phương mẫu D-1 “Ranh giới của khu vực gạt bóng được quy định bởi vạch kẻ/ chấm sơn màu [màu sơn]. Các đường kẻ/ chấm sơn này ở trên/ngoài khu vực gạt bóng và không được giải thoát không phạt khỏi các đường kẻ/ chấm sơn này.”
D-2
Tình trạng của khu vực gạt bóng khi sử dụng khu vực gạt bóng tạm thời
Mục đích của luật. Đôi khi không thể sử dụng một khu vực gạt bóng của một hố vì lý do nào đó, như là do thời tiết, hoặc khi đang sửa chữa, bảo dưỡng. Trong trường hợp này, Hội đồng có thể chuẩn bị một khu vực gạt bóng tạm thời và sử dụng một Luật địa phương để quy định nó là khu vực gạt bóng của hố đó. Khu vực gạt bóng ban đầu, mà đã được thay thế bởi khu vực gạt bóng tạm thời, sẽ trở thành khu vực gạt bóng sai do nó không còn là khu vực gạt bóng của hố mà người chơi đang chơi. Luật địa phương mẫu D-2 Khu vực gạt bóng tạm thời được sử dụng làm khu vực gạt bóng của hố [hố] được xác định bởi [mô tả, ví dụ như khu vực sơn trắng ở fairway]. Khu vực gạt bóng ban đầu, mà đã được thay thế bởi khu vực gạt bóng tạm thời nói trên, là khu vực gạt bóng sai và phải thực hiện giải thoát không phạt khỏi nó theo Luật 13.1f. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
D-3
Không được giải thoát không phạt khỏi khu vực gạt bóng sai khi chỉ bị ảnh hưởng đến thế đứng
Mục đích của luật. Có một số trường hợp mà Hội đồng không muốn cho người chơi được giải thoát khỏi khu vực gạt bóng sai khi chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi đó, ví dụ:
  • Có khu vực cỏ cao, dày ở cạnh một số khu vực gạt bóng mà Hội đồng cho rằng sẽ không công bằng khi bắt buộc người chơi thực hiện giải thoát vào các khu vực đó, hoặc
  • Có một khu vực gạt bóng rất lớn được sử dụng cho hai hố khác nhau, mà Hội đồng quyết định chia nó ra làm hai khu vực gạt bóng khác nhau, theo đó Hội đồng không cần phải yêu cầu người chơi thực hiện giải thoát khi khu vực gạt bóng của hố bên kia ảnh hưởng đến thế đứng của họ khi đang chơi hố bên này.
Luật địa phương mẫu D-3.1 Luật 13.1f được điều chỉnh như sau: Không được giải thoát không phạt nếu khu vực gạt bóng sai chỉ ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi.” Luật địa phương mẫu D-3.2 Luật 13.1f được điều chỉnh như sau: Khi bóng của người chơi ở trên khu vực gạt bóng của hố [hố], không có ảnh hưởng đối với thế đứng của người chơi bởi khu vực gạt bóng của hố [hố] và ngược lại.”
D-4
Không được đánh bóng từ cổ của khu vực gạt bóng sai
Mục đích của luật. Nếu khi đang chơi một hố nào đó, bóng thường đến nằm yên ở khu vực gạt bóng của hố bên cạnh:
  • Điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất khi thực hiện giải thoát khỏi khu vực gạt bóng sai đó theo Luật 13.1f thường sẽ ở sát khu vực gạt bóng đó (cổ green), và
  • Việc này có thể sẽ làm hư hỏng khu vực cổ green đó (khi đánh bóng từ đó).
Để phòng ngừa các hư hỏng này, Hội đồng có thể yêu cầu người chơi thực hiện giải thoát theo Luật 13.1f bằng việc sử dụng một khu thả bóng (dropping zone) (xem Luật địa phương E-1) hoặc bằng việc sử dụng điểm tham chiếu là điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất không bị ảnh hưởng bởi cả khu vực gạt bóng sai và cổ green đó. Luật địa phương mẫu D-4.1 “Khi đang chơi hố [hố], nếu người chơi phải thực hiện giải thoát theo Luật 13.1f do bóng của họ đến nằm yên trên khu vực gạt bóng của hố [hố] hoặc khu vực gạt bóng đó ảnh hưởng đến thế đứng hoặc khu vực swing dự kiến của họ:
  • Khi xác định khu vực giải thoát theo luật này, khu vực gạt bóng của hố [hố] sẽ bao gồm khu vực fairway trong vòng [khoảng cách, ví dụ như hai chiều-dài-gậy-đo] từ mép của khu vực gạt bóng đó.
  • Nghĩa là điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất phải không bị ảnh hưởng bởi cả khu vực này và khu vực gạt bóng đó.”
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu D-4.2 Khu vực gạt bóng sai bao gồm [khoảng cách từ mép khu vực gạt bóng sai/khu vực xung quanh khu vực gạt bóng sai]. Khi người chơi bị ảnh hưởng bởi một khu vực gạt bóng sai theo Luật 13.1f, bao gồm cả khu vực mở rộng này, người chơi phải thực hiện giải thoát không phạt. [Không được giải thoát nếu chỉ ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi.] Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
D-5
Tình trạng của khu gạt bóng tập hoặc khu gạt bóng tạm thời
Mục đích của luật. Theo định nghĩa, khu vực gạt bóng sai bao gồm các khu vực tập gạt và chip bóng, nhưng Hội đồng có thể cho phép đánh bóng từ đó thông qua một Luật địa phương (nghĩa là người chơi có bóng ở trên khu gạt bóng này phải đánh bóng từ đó). Một khu gạt bóng tạm thời của một hố thường là một phần của khu vực chung khi không được sử dụng, nhưng Hội đồng có thể quy định nó là khu vực gạt bóng sai. Hội đồng cũng có thể cho phép người chơi thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1b. Luật địa phương mẫu D-5.1 “Khu gạt bóng tập ở [vị trí] không phải là một khu vực gạt bóng sai và không được và không cần thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 13.1f.” Luật địa phương mẫu D-5.2 “Khu gạt bóng tạm thời ở [vị trí] là một khu vực gạt bóng sai cho dù không được sử dụng và phải thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 13.1f.” Luật địa phương mẫu D-5.3 “Khu gạt bóng tập ở [vị trí] không phải là khu vực gạt bóng sai và không cần thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 13.1f, nhưng nó là một mặt sân đang sửa chữa mà người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1b.”
D-6
Chia một khu vực gạt bóng ra làm hai khu vực gạt bóng khác nhau
Mục đích của luật. Khi sân có một khu vực gạt bóng cho hai hố khác nhau, Hội đồng có thể chia khu vực gạt bóng đó ra thành hai khu vực gạt bóng khác nhau thông qua một Luật địa phương. Theo đó, người chơi có bóng ở khu vực gạt bóng của hố bên kia (hố không phải đang chơi) phải thực hiện giải thoát theo Luật 13.1f. Nên làm rõ phương pháp xác định sự chia tách này. Luật địa phương này có thể được điều chỉnh để không cho phép giải thoát khi chỉ có ảnh hưởng của khu vực gạt bóng sai đến thế đứng của người chơi trong trường hợp bóng của người chơi ở bên này (trên khu vực gạt bóng đúng) nhưng thế đứng của họ lại ở bên kia (trên khu vực gạt bóng sai). Luật địa phương mẫu D-6 “Khu vực gạt bóng ở hố [hố] là hai khu vực gạt bóng khác nhau, được phân biệt bởi [mô tả phương pháp, ví dụ như bằng cọc màu sắc]. Người chơi bị ảnh hưởng bởi khu vực gạt bóng sai nếu bị ảnh hưởng bởi phần khu vực gạt bóng ở bên kia (khu vực gạt bóng của hố không phải đang chơi) và phải thực hiện giải thoát theo Luật 13.1f. [Không được giải thoát khi khu vực gạt bóng sai chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi.] Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E

Các quy trình giải thoát đặc biệt

E-1
Khu thả bóng
Mục đích của luật. Khu thả bóng là một khu vực giải thoát đặc biệt mà Hội đồng có thể sử dụng. Khi thực hiện giải thoát trong một khu thả bóng, người chơi phải thả một bóng bên trong và bóng đó phải đến nằm yên trong khu thả bóng đó. Nên xem xét sử dụng khu thả bóng khi có thể có vấn đề với việc sử dụng các lựa chọn giải thoát thông thường theo luật của người chơi, như là: Các điều sau đây sẽ được áp dụng khi thả bóng trong một khu thả bóng:
  • Người chơi không phải đứng bên trong khu thả bóng khi thả bóng.
  • Khi người chơi sử dụng khu thả bóng, khu vực giải thoát sẽ chính là khu thả bóng đó và bóng phải được thả bên trong và đến nằm yên bên trong khu thả bóng đó (xem Luật 14.3).
  • Nếu khu thả bóng được xác định bằng vạch kẻ trên mặt đất, vạch kẻ đó sẽ ở trong khu thả bóng.
Hội đồng có thể cung cấp nhiều khu thả bóng cho một số tình huống, như là cho một khu vực phạt rất lớn. Trong trường hợp này, Hội đồng nên xác định rõ khu thả bóng nào sẽ được sử dụng, như là khu thả bóng gần nhất, hoặc khu thả bóng gần nhất nhưng không gần hố cờ hơn. Xem Phần 2I với các thông tin khác về khu thả bóng. Ở dưới là Luật địa phương mẫu cho hai tình huống phổ biến nhất trong việc sử dụng khu thả bóng, và có thể được điều chỉnh một cách thích hợp cho các điều luật khác ở trên. Luật địa phương mẫu E-1.1 Luật địa phương mẫu này được áp dụng cho trường hợp khu thả bóng được sử dụng làm một lựa chọn giải thoát thêm khỏi một khu vực phạt. “Nếu bóng của người chơi ở trong khu vực phạt màu [màu sắc] ở [vị trí], bao gồm khi biết hoặc gần như chắc chắn là ở trong khu vực phạt đó cho dù không được tìm thấy, người chơi có các lựa chọn sau, vớimột gậy phạtcho mỗi lựa chọn đó:
  • Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 17.1, hoặc
  • Là một lựa chọn thêm, người chơi có thể thả bóng gốc hoặc một bóng khác trong khu thả bóng [mô tả cách xác định và vị trí của khu thả bóng]. Khu thả bóng là một khu vực giải thoát theo Luật 14.3.
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu E-1.2 Luật địa phương mẫu này cho trường hợp khu thả bóng được sử dụng làm một lựa chọn giải thoát thêm khỏi một điều kiện sân bất thường như là một mặt sân đang sửa chữa có diện tích lớn. “Nếu bóng của người chơi ở trong mặt sân đang sửa chữa [mô tả vị trí], bao gồm khi biết hoặc gần như chắc chắn là ở trong mặt sân đang sửa chữa đó cho dù không được tìm thấy, người chơi có các lựa chọn sau, với một gậy phạt cho mỗi lựa chọn đó:
  • Người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1, hoặc
  • Là một lựa chọn thêm, người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt bằng cách thả bóng gốc hoặc một bóng khác trong khu thả bóng [mô tả cách xác định và vị trí của khu thả bóng]. Khu thả bóng là một khu vực giải thoát theo Luật 14.3.
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu E-1.3 Luật địa phương mẫu này áp dụng cho trường hợp khu thả bóng là lựa chọn giải thoát duy nhất (ngoài gậy-và-khoảng-cách) khi thực hiện giải thoát khỏi một khu vực phạt, nhưng cũng có thể được áp dụng cho một trong các luật được liệt kê ở trên. “Nếu bóng của người chơi ở trong khu vực phạt màu [màu sắc] ở [vị trí], bao gồm khi biết hoặc gần như chắc chắn là ở trong khu vực phạt đó cho dù không được tìm thấy, người chơi có các lựa chọn sau, vớimột gậy phạtcho mỗi lựa chọn đó:
  • Người chơi có thể thực hiện giải thoát gậy-và-khoảng-cách theo Luật 17.1d(1), hoặc
  • Người chơi có thể thả bóng gốc hoặc một bóng khác trong khu thả bóng [mô tả cách xác định và vị trí của khu thả bóng]. Khu thả bóng là một khu vực giải thoát theo Luật 14.3.
Người chơi không được thực hiện giải thoát theo Luật 17.1d(2) hoặc 17.1d(3). Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-2
Làm sạch bóng
Mục đích của luật. Khi điều kiện sân có thể làm cho bùn đất dính vào bóng, Hội đồng có thể cho phép người chơi đánh dấu, nhấc, làm sạch và đặt lại bóng trong khu vực chung. Chỉ nên cho phép giải thoát này ở một số nơi trên sân khi cần. Trong khi Luật địa phương cho Preferred Lies (Luật địa phương mẫu E-3) được thiết kế để áp dụng cho khu vực chung có cỏ cắt thấp hơn hoặc bằng với chiều cao của cỏ fairway, Luật địa phương này có thể được sử dụng trong toàn bộ khu vực chung hoặc chỉ một khu vực nào đó. Hội đồng có thể sử dụng cả hai Luật địa phương này, cho phép giải thoát preferred lies trong fairway và làm sạch bóng trong khu vực chung. Không được phép áp dụng Luật địa phương này sau khi một vòng đấu gậy đã bắt đầu. Làm thế sẽ khiến cho người chơi còn nhiều hố chưa hoàn thành có lợi thế hơn. Luật địa phương này có thể được áp dụng sau khi một trận đấu đối kháng đã bắt đầu (áp dụng từ giữa hai hố) do các đối thủ sẽ có lợi thế và điều kiện giống nhau. Đối với các hướng dẫn về việc khi nào và làm cách nào để áp dụng Luật địa phương này nhằm đảm bảo kết quả vòng đấu có thể được sử dụng cho việc tính handicap (ví dụ như nếu chỉ giới hạn trong fairway mà thôi), tham khảo luật hoặc các gợi ý trong Luật về handicap và các tài liệu của Hệ thống handicap thế giới (World handicap system) hoặc các hướng dẫn khác của cơ quan quản lý handicap địa phương. Luật địa phương mẫu E-2 “Khi bóng của người chơi ở trong [mô tả vị trí, như là khu vực chung, ở hố 6, trong khu vực chung có cỏ thấp hơn hoặc bằng cỏ fairway, v.v.], bóng có thể được nhấc, làm sạch và đặt lại mà không bị phạt. Người chơi phải đánh dấu vị trí bóng trước khi nhấc nó (xem Luật 14.1) và bóng phải được đặt lại ở vị trí ban đầu của nó (xem Luật 14.2). Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-3
Preferred Lies (Đặt bóng bên cạnh)
Mục đích của luật. Khi những điều kiện bất thường có tính tạm thời có thể ảnh hưởng đến cuộc chơi, những khu vực trên sân bị ảnh hưởng có thể được quy định là mặt sân đang sửa chữa. Nhưng các điều kiện thời tiết khắc nghiệt như tuyết lớn, băng tan, mưa kéo dài hoặc nắng nóng gắt đôi khi có thể làm hư hỏng sân hoặc không cho phép sử dụng các thiết bị bảo dưỡng sân. Khi các tình trạng này diễn ra ở diện rộng trên sân, Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương “preferred lies” để cho phép cuộc chơi công bằng hơn hoặc để bảo vệ các fairway. Nên rút lại Luật địa phương này ngay sau khi không còn các điều kiện nói trên nữa. Không nên áp dụng Luật địa phương này cho khu vực chung bên ngoài fairway, do có thể dẫn đến việc người chơi được giải thoát không phạt khỏi những khu vực mà bóng thường không đánh đươc (như là trong các bụi cây hoặc cây lớn). Khi các điều kiện như là sân ướt có thể làm bùn đất bám vào bóng, thay vì sử dụng Luật địa phương “preferred lies” này, Hội đồng có thể cho phép người chơi đánh dấu, nhấc, làm sạch và đặt lại bóng trong khu vực chung (xem Luật địa phương mẫu E.2). Không được phép áp dụng Luật địa phương này sau khi một vòng đấu gậy đã bắt đầu. Làm thế sẽ khiến cho người chơi còn nhiều hố chưa hoàn thành có lợi thế hơn. Luật địa phương này có thể được áp dụng sau khi một trận đấu đối kháng đã bắt đầu (áp dụng từ giữa hai hố) do các đối thủ sẽ có lợi thế và điều kiện giống nhau. Đối với các hướng dẫn về việc khi nào và làm cách nào để áp dụng Luật địa phương này nhằm đảm bảo kết quả vòng đấu có thể được sử dụng cho việc tính handicap (bao gồm kích thước của khu vực giải thoát và nếu chỉ giới hạn trong fairway mà thôi), tham khảo luật hoặc các gợi ý trong Luật về handicap và các tài liệu của Hệ thống handicap thế giới (World handicap system) hoặc các hướng dẫn khác của cơ quan quản lý handicap địa phương. Luật địa phương mẫu E-3 “Khi bất kỳ phần nào của bóng của người chơi chạm vào khu vực chung có cỏ cắt thấp hơn hoặc bằng với chiều cao cỏ fairway [hoặc mô tả vị trí, như là trên fairway của hố 6], người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt một lần bằng cách đặt bóng gốc hoặc một bóng khác bên trong và đánh từ khu vực giải thoát sau:
  • Điểm tham chiếu: Vị trí của bóng gốc.
  • Kích thước của khu vực giải thoát đo từ điểm tham chiếu: [mô tả kích thước của khu vực giải thoát, như là một chiều-dài-gậy-đo, một chiều dài của bảng điểm hoặc 6 inches] từ điểm tham chiếu, nhưng với các giới hạn sau:
  • Giới hạn của khu vực giải thoát:
    • Phải không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu, và
    • Phải ở trong khu vực chung.
Khi thực hiện theo Luật địa phương này, người chơi phải chọn một điểm để đặt bóng và sử dụng quy trình đặt lại bóng của Luật 14.2b(2)14.2e. Tuy nhiên, đối với Luật 14.2e, người chơi chỉ xem như đã chọn điểm đặt bóng một khi bóng đã được đặt xuống, và buông ra với ý định đưa bóng đó vào trong cuộc. Sau khi bóng đã được đặt và ở trong cuộc theo Luật địa phương này, nếu người chơi sau đó thực hiện giải thoát theo một luật khác, có thể sử dụng tiếp tục Luật địa phương này một lần nữa. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-4
Giải thoát khỏi các lỗ thoát khí
Mục đích của luật. Các lỗ thoát khi không phải là các hố/lỗ được tạo ra bởi nhân viên bảo dưỡng sân hoặc “hư hỏng trên khu vực gạt bóng” ở Luật 13.1c. Người chơi do đó không được phép sửa chúng trên khu vực gạt bóng hoặc thực hiện giải thoát không phạt khỏi chúng trong khu vực chung hoặc trên khu vực gạt bóng, nhưng các lỗ này có thể ảnh hưởng đến cuộc chơi. Nếu Hội đồng quy định lỗ thoát khí là mặt sân đang sửa chữa, việc giải thoát hoàn toàn khỏi chúng có thể sẽ không thực tế hoặc không khả thi. Do đó, khi các lỗ thoát khí có thể ảnh hưởng lớn đến thế nằm của bóng, Hội đồng có thể cho phép giải thoát đối với bóng nằm trong hoặc chạm một lỗ thoát khí. Nên rút lại Luật địa phương này một khi các lỗ thoát khí này đã phục hồi đến mức độ không còn gây ảnh hưởng nữa. Luật địa phương mẫu E-4 “Nếu bóng của người chơi nằm trong hoặc chạm một lỗ thoát khí: (a) Bóng ở trong khu vực chung. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b. Nếu bóng đến nằm yên trong một lỗ thoát khí khác, người chơi có thể tiếp tục thực hiện giải thoát một lần nữa theo Luật địa phương này. (b) Bóng ở trên khu vực gạt bóng. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1d. Tuy nhiên, sẽ không được giải thoát nếu lỗ thoát khí chỉ ảnh hưởng đến thế đứng hoặc khu vực swing dự kiến của người chơi, hoặc trên khu vực gạt bóng, hướng đánh của họ. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-5
Phương án giải thoát thay thế cho gậy-và-khoảng-cách đối với bóng bị mất hoặc ra ngoài biên
Mục đích của luật. Khi bóng dự phòng đã không được đánh, có thể sẽ có ảnh hưởng đến tốc độ chơi nếu người chơi cần quay lại vị trí trước đó để thực hiện giải thoát gậy-và-khoảng-cách đối với bóng ra ngoài biên hoặc không được tìm thấy. Mục đích của Luật địa phương này là cho phép Hội đồng cung cấp thêm một lựa chọn giải thoát để người chơi có thể tiếp tục chơi thay vì quay lại vị trí của cú đánh trước đó. Luật địa phương này chỉ thích hợp cho cuộc chơi thông thường hàng ngày hoặc khi người chơi tự thi đấu. Luật địa phương này không thích hợp cho các giải đấu dành cho những người chơi trình độ cao (như là các giải đấu chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư trình độ cao). Đối với các hướng dẫn về việc khi nào và làm cách nào để áp dụng Luật địa phương này nhằm đảm bảo kết quả vòng đấu có thể được sử dụng cho việc tính handicap, tham khảo luật hoặc các gợi ý trong Luật về handicap và các tài liệu của Hệ thống handicap thế giới (World handicap system) hoặc các hướng dẫn khác của cơ quan quản lý handicap địa phương. Khi Hội đồng áp dụng Luật địa phương này cho cuộc chơi thông thường hàng ngày, nhưng không áp dụng nó cho các giải đấu, Hội đồng nên đảm bảo là tất cả người chơi biết về việc này trước khi giải đấu đó diễn ra. Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương này cho toàn bộ sân hoặc chỉ cho một hoặc hai khu vực đặc biệt nơi nó thật sự có ích (ví dụ: khu vực mà người chơi không thể thấy nơi bóng tiếp đất và do đó không biết là có cần phải đánh bóng dự phòng hay không). Lựa chọn này cho phép người chơi thả bóng trong một khu vực khá rộng, giữa vị trí ước lượng nơi bóng đã đến nằm yên hoặc ra ngoài biên và mép fairway của hố đang chơi, không gần cờ hơn. Người chơi sẽ nhận hai gậy phạt khi sử dụng lựa chọn giải thoát này, tương đương với việc người chơi thực hiện giải thoát gậy-và-khoảng-cách. Không thể sử dụng Luật địa phương này cho bóng không đánh đươc, hoặc cho bóng mà biết hoặc gần như chắc chắn là ở trong một khu vực phạt. Nếu bóng dự phòng đã được đánh và không thể tìm được cả bóng gốc và bóng dự phòng, có thể áp dụng Luật địa phương này cho bóng dự phòng đó. Luật địa phương mẫu E-5 “Khi bóng của người chơi không được tìm thấy hoặc biết hoặc gần như chắc chắn là ở ngoài biên, người chơi có thể làm như sau thay vì thực hiện giải thoát gậy-và-khoảng-cách. Vớihai gậy phạt, người chơi có thể thực hiện giải thoát bằng cách thả bóng gốc hoặc một bóng khác trong khu vực giải thoát sau (xem Luật 14.3): Hai điểm tham chiếu ước lượng: (a)Điểm tham chiếu bóng: Vị trí ước lượng mà bóng gốc đã:
  • Đến nằm yên trên sân, hoặc
  • Cắt ranh giới sân lần cuối cùng trước khi ra ngoài biên.
(b)Điểm tham chiếu trên fairway: Vị trí trên fairway của hố đang chơi, gần nhất với điểm tham chiếu bóng, nhưng không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu bóng đó. Với Luật địa phương này, “fairway” là bất kỳ phần nào của khu vực chung có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng chiều cao cỏ fairway. Nếu bóng được ước tính là đã bị mất trên sân hoặc cắt ranh giới sân lần cuối cùng ở nơi chưa đến fairway (tính từ khu vực phát bóng), điểm tham chiếu trên fairway có thể là một con đường cỏ (từ khu vực phát bóng đến fairway) hoặc một bệ phát bóng của hố đang chơi mà có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng chiều cao cỏ fairway. Kích thước của khu vực giải thoát tính từ điểm tham chiếu: Ở giữa:
  • Đường thẳng kéo từ hố cờ qua điểm tham chiếu bóng (và trong vòng hai chiều-dài-gậy-đo ra ngoài đường thẳng này), và
  • Đường thẳng kéo từ hố cờ qua điểm tham chiếu trên fairway (và trong vòng hai chiều-dài-gậy-đo ra ngoài đường thẳng này).
Nhưng với các giới hạn sau: Giới hạn của khu vực giải thoát:
  • Phải ở trong khu vực chung, và
  • Phải không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu bóng.
Một khi người chơi đã đưa một bóng vào trong cuộc theo Luật địa phương này:
  • Bóng gốc không còn trong cuộc nữa và phải không được đánh.
  • Điều này đúng cho dù sau đó bóng gốc được tìm thấy trên sân trước khi kết thúc thời gian ba-phút tìm kiếm (xem Luật 6.3b).
Tuy nhiên, người chơi không thể sử dụng lựa chọn này để thực hiện giải thoát cho bóng gốc khi:
  • Biết hoặc gần như chắc chắn là bóng gốc đã đến nằm yên trong một khu vực phạt, hoặc
  • Người chơi đã đánh một bóng dự phòng theo hình phạt gậy-và-khoảng-cách (xem Luật 18.3).
Người chơi có thể sử dụng lựa chọn giải thoát này đối với một bóng dự phòng mà không được tìm thấy hoặc biết hoặc gần như chắc chắn là đã ra ngoài biên. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a.
E-6
Giải thoát khỏi hàng rào bảo vệ khi có ảnh hưởng đến hướng đánh
Mục đích của luật. Hàng rào (hoặc bức ngăn bảo vệ có cùng mục đích) có thể được sử dụng để bảo vệ người chơi ở một hố khỏi các cú đánh từ một hố khác. Nếu hàng rào đó ở gần với một hố khác, Hội đồng có thể sử dụng một hoặc nhiều khu thả bóng (dropping zone) để cho người chơi thêm một lựa chọn giải thoát không phạt khi họ đang chơi hố đó mà hàng rào ở trên hướng đánh của họ. Người chơi chỉ nên được giải thoát khi bóng ở gần hố cờ hơn khu thả bóng, để người chơi có bóng xa hàng rào hơn không được phép thả bóng gần cờ hơn. Hội đồng nên xem xét việc này khi đánh dấu vị trí của một hoặc nhiều khu thả bóng để đảm bảo là chỉ được có giải thoát này trong các tình huống mà việc giải thoát không phạt là hợp lý. Luật địa phương mẫu E-6 “Khi đang chơi hố [hố], nếu hàng rào bảo vệ ở [mô tả vị trí] ở trên hướng đánh của người chơi, người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt bằng cách thả bóng bên trong và đánh từ khu thả bóng ở [mô tả vị trí]. Tuy nhiên, chỉ được giải thoát nếu bóng trong cuộc ở gần hố cờ hơn vị trí của khu thả bóng (xem Luật 14.3). Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-7
Giải thoát khỏi hàng rào ranh giới điện
Mục đích của luật. Khi hàng rào điện được sử dụng làm vật thể xác định ranh giới sân, được phép sử dụng một Luật địa phương cho phép giải thoát không phạt đối với bóng nằm trong một phạm vị nhất định (ví dụ: hai chiều-dài-gậy-đo) từ hàng rào ranh giới đó. Trong trường hợp này, để đảm bảo an toàn cho người chơi, người chơi có thể đo hai chiều-dài-gậy-đo từ hàng rào và thả bóng trong khu vực giải thoát kích có thước một chiều-dài-gậy-đo, không gần cờ hơn vị trí của bóng gốc. Luật địa phương mẫu E-7 “Nếu bóng trên sân ở trong vòng [mô tả khoảng cách, như là hai chiều-dài-gậy-đo] từ hàng rào ranh giới điện ở hố [mô tả vị trí], người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1, dựa vào điểm tham chiếu sau:
  • Vị trí cách [mô tả khoảng cách, như là hai chiều-dài-gậy-đo] từ hàng rào mà có khoảng cách đến hố cờ bằng với khoảng cách từ bóng gốc đến hố cờ.
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-8
Quy định khu vực không được phép đánh
Mục đích của luật. Có một vài khu vực trên sân mà Hội đồng muốn cấm chơi, khi đó mỗi khu vực này phải được quy định là một phần của một điều kiện sân bất thường hoặc một khu vực phạt. Hội đồng có thể sử dụng khu vực không được phép đánh với bất kỳ lý do gì, như là:
  • Bảo vệ động vật hoang dã, môi trường sống của động vật và các khu vực nhạy cảm về môi trường.
  • Ngăn ngừa hư hỏng đối với cây con, vườn hoa, cỏ dưỡng, khu vực trồng lại cỏ hoặc các khu vực trồng cây khác.
  • Bảo vệ người chơi khỏi các nguy hiểm.
  • Giữ gìn, bảo tồn các địa điểm lịch sử và văn hóa quan trọng.
Xem Phần 2G5B(5) để biết thêm thông tin về khu vực không được phép đánh và cách đánh dấu đúng. Luật địa phương mẫu E-8.1 “Khu vực được đánh dấu [mô tả cách đánh dấu, như là cọc màu xanh dương có đầu cọc màu xanh lá cây] ở [mô tả vị trí, ví dụ như bên phải hố 8] là một khu vực không được phép đánh thuộc một điều kiện sân bất thường. Phải thực hiện giải thoát khỏi ảnh hưởng bởi khu vực không được phép đánh này theo Luật 16.1f.” Luật địa phương mẫu E-8.2 “Khu vực bên trong khu vực phạt màu [đỏ/vàng] được đánh dấu [mô tả cách đánh dấu và vị trí, ví dụ: cọc màu đỏ/vàng có đầu cọc màu xanh lá cây bên phải hố 8] là một khu vực không được phép đánh thuộc khu vực phạt. Phải thực hiện giải thoát khỏi ảnh hưởng bởi khu vực không được phép đánh này theo Luật 17.1e.”
E-9
Quy định một khu vực ngoại biên là khu vực không được phép đánh
Mục đích của luật. Mặc dù người chơi không thể đánh bóng từ ngoài biên, có thể có các khu vực ở ngoài biên mà Hội đồng muốn quy định là khu vực không được phép đánh để ngăn người chơi làm hư hỏng cây cối trong khu vực đó khi chúng ảnh hưởng đến việc đánh bóng trong sân. Trong trường hợp này, người chơi phải thực hiện giải thoát không phạt nếu bóng của họ ở trong sân nhưng thế đứng dự kiến của họ ở trong khu vực không được phép đánh ở ngoài biên đó hoặc nếu swing của họ chạm vào bất kỳ vật gì bên trong khu vực không được phép đánh đó. Luật địa phương mẫu E-9 “[Mô tả khu vực] ở ngoại biên là một khu vực không được phép đánh. Người chơi phải thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1f(2) nếu bóng của họ ở trong sân và khu vực không được phép đánh đó ảnh hưởng đến thế đứng hoặc khu vực swing dự kiến của người chơi. Người chơi không được đánh bóng từ nơi nó nằm. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-10
Bảo vệ cây con
Mục đích của luật. Để phòng ngừa hư hỏng đối với các cây con khi người chơi thực hiện cú đánh, Hội đồng có thể quy định các cây con này là khu vực không được phép đánh để:
  • Nếu người chơi bị ảnh hưởng như quy định ở Luật 16.1 bởi các cây con này (là khu vực không được phép), họ phải thực hiện giải thoát theo Luật 16.1f.
  • Nếu bóng của người chơi ở trong một khu vực phạt, họ phải thực hiện giải thoát không phạt bên trong khu vực phạt đó theo Luật địa phương này hoặc giải thoát có phạt theo Luật 17.1.
Tương tự, Hội đồng có thể đánh dấu một khu vực không được phép đánh bao gồm nhiều cây con ở gần nhau. Hoặc Hội đồng có thể quy định các cây con này là điều kiện sân bất thường để người chơi không bắt cuộc phải thực hiện giải thoát. Trong bất kỳ tình huống nào, các cây con này nên được đánh dấu bởi cọc, dây hoặc theo một cách rõ ràng khác. Khi cây đã lớn và không cần bảo vệ nữa, Hội đồng nên rút lại Luật địa phương này và bỏ các vật đánh dấu này khỏi cây. Luật địa phương mẫu E-10.1 “Các cây con được đánh dấu bởi [mô tả cách đánh dấu] là khu vực không được phép đánh:
  • Nếu bóng của người chơi ở bất kỳ đâu trên sân, trừ trong khu vực phạt, và nằm trên hoặc chạm một trong các cây con này, hoặc cây con ảnh hưởng đến thế đứng hoặc khu vực swing dự kiến của người chơi, người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1f.
  • Nếu bóng ở trong khu vực phạt, và có ảnh hưởng đến thế đứng hoặc khu vực swing dự kiến của người chơi, người chơi phải thực hiện giải thoát theo Luật 17.1e.
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu E-10.2 “Các cây con được đánh dấu bởi [mô tả cách đánh dấu] là điều kiện sân bất thường. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
E-11
Bóng bị làm chệch hướng bởi dây điện
Mục đích của luật. Nếu một đường dây điện cố định trên cao có thể ảnh hưởng đến cuộc chơi ở một hố, Hội đồng có thể quy định là khi bóng chạm dây điện đó (và trụ điện, hoặc dây giằng hoặc trụ chống), cú đánh không được tính và người chơi phải thực hiện lại cú đánh đó. Thường thì không nên sử dụng Luật địa phương này cho đường dây điện ở ngoại biên hoặc không có ảnh hưởng đến cuộc chơi. Không được phép có Luật địa phương cho phép người chơi có lựa chọn đánh lại hoặc không đánh lại nếu bóng chạm dây điện. Luật địa phương mẫu E-11 “Nếu biết hoặc gần như chắc chắn là bóng của người chơi chạm [mô tả kiến trúc, như là đường dây điện, trụ điện, dây giằng hoặc trụ chống] khi đang chơi hố [hố], người chơi phải thực hiện lại cú đánh đó bằng cách đánh bóng gốc hoặc một bóng khác từ vị trí của cú đánh đó (xem Luật 14.6). Nếu người chơi thực hiện lại cú đánh nhưng đánh sai vị trí, họ sẽ nhận hình phạt chung theo Luật 14.7. Nếu người chơi không thực hiện lại cú đánh, họ sẽ nhận hình phạt chung cú đánh đó được tính, tuy nhiên người chơi đã không đánh bóng sai vị trí."
E-12
Bắt buộc sử dụng thảm nhân tạo trên fairway
Mục đích của luật. Khi cần bảo vệ sân khỏi hư hỏng do việc đánh bóng, như khi thời tiết lạnh giá trong một thời gian dài khiến cỏ mọc rất chậm. Trong trường hợp này, Hội đồng có thể yêu cầu sử dụng thảm trong khu vực chung, ở nơi có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng cỏ fairway, khi người chơi không sử dụng gậy gạt bóng (putter). Không khuyến khích sử dụng Luật địa phương này ở trong khu vực chung bên ngoài fairway, và không được phép hạn chế sử dụng gậy gạt bóng ở một số khu vực cụ thể. Đối với các hướng dẫn về việc khi nào và làm cách nào để áp dụng Luật địa phương này nhằm đảm bảo kết quả vòng đấu có thể được sử dụng cho việc tính handicap, tham khảo luật hoặc các gợi ý trong Luật về handicap và các tài liệu của Hệ thống handicap thế giới (World handicap system) hoặc các hướng dẫn khác của cơ quan quản lý handicap địa phương. Luật địa phương mẫu E-12 “Khi bóng của người chơi ở trong một phần của khu vực chung có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng với cỏ fairway và gậy gạt bóng không được sử dụng để thực hiện cú đánh, người chơi phải thực hiện giải thoát không phạt bằng cách nhấc bóng gốc và đặt bóng gốc đó hoặc một bóng khác trên một cái thảm nhân tạo và đánh bóng từ đó. Phải đặt thảm ở bên trên vị trí bóng đến nằm yên. Nếu bóng sau khi đặt lăn ra khỏi thảm, người chơi phải đặt nó lần thứ hai. Nếu bóng vẫn không nằm yên trên thảm, phải dời thảm đến vị trí gần nhất, không gần cờ hơn, nơi bóng sẽ đến nằm yên trên thảm khi được đặt. Nếu bóng trên thảm bị di chuyển một cách vô tình trước khi thực hiện cú đánh, không bị phạt và bóng phải được đặt lại trên thảm. Nếu sử dụng tee để cố định thảm xuống đất, không được đặt bóng lên cái tee đó. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F

Các điều kiện sân bất thường và vật thể thuộc sân

F-1
Quy định các điều kiện sân bất thường và vật thể thuộc sân
Mục đích của luật. Hội đồng có thể quy định điều kiện sân bất thường và vật thể thuộc sân ở trên sân theo nhiều cách, nên phần này chỉ cung cấp một vài ví dụ, chứ không phải là một danh sách đầy đủ, các Luật địa phương đó. Nguyên tắc là phải rõ ràng và cụ thể khi quy định điều kiện sân bất thường và vật thể thuộc sân trong Luật địa phương. Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương với các lý do sau mà không cần chúng phải giống với Luật địa phương mẫu:
  • Quy định các vật thể không phổ biến là vật cản.
  • Quy định một vật thể nhân tạo là vật thể thuộc sân (và không phải là một vật cản).
  • Quy định các bề mặt và ranh giới nhân tạo của một con đường là vật thể thuộc sân.
  • Quy định các con đường và lối đi không có bề mặt và ranh giới nhân tạo là vật cản nếu chúng có thể ảnh hưởng đến cuộc chơi.
  • Quy định một vật cản tạm thời trên sân hoặc gần sân là vật cản di dời được, cố định hoặc cố định tạm thời.
Phần này không cung cấp một Luật địa phương mẫu nào cụ thể, nhưng chỉ là một vài ví dụ:
  • Mặt sân đang sửa chữa là các khu vực được đánh dấu xung quanh bằng vạch kẻ trắng [hoặc màu khác hoặc cách đánh dấu khác thích hợp.]”
  • Mặt sân đang sửa chữa bao gồm các tảng đá lộ thiên ở khu vực có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng chiều cao cỏ fairway [hoặc trong vòng một khoảng cách quy định từ fairway, như là hai chiều-dài-gậy-đo].”
  • “Các khu vực cát bị nước xói mòn làm thành các rãnh bên trong bẫy cátmặt sân đang sửa chữa.”
  • “Các tấm thảm cố định trên sân và các tấm gờ nhựa che dây cáp điện là vật cản cố định.”
  • “Hàng rào bảo vệ xung quanh các khu vực gạt bóng là vật cản cố định.”
  • “Các thanh ngang trên hàng rào ngang là vật cản [cố định/ di dời được].”
  • “Vách tường, cọc chống nhân tạo khi nằm bên trong khu vực phạtvật thể thuộc sân.”
  • “Dây cáp và các vật quấn [chặt] xung quanh các thân cây là vật thể thuộc sân.”
Xem Phần 2F5B(4) với các thông tin khác về điều kiện sân bất thường. Xem Phần 2F5B(4) với các thông tin khác về vật thể thuộc sân.
F-2
Hạn chế giải thoát đối với bóng lún
Mục đích của luật. Luật 16.3 thường cho phép giải thoát khi bóng bị lún ở bất kỳ đâu trong khu vực chung (trừ trong cát ở nơi có cỏ cao hơn chiều cao cỏ fairway). Nhưng Hội đồng có thể:
  • Chỉ cho phép giải thoát khi bóng lún trong khu vực chung, nơi có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng cỏ fairway.
  • Không cho phép giải thoát khi bóng lún trong thành hoặc mép của một bẫy cát (như là thành đất hoặc cỏ xếp lớp – stacked turf or soil face).
Luật địa phương mẫu F-2.1 Luật 16.3 được điều chỉnh như sau: Chỉ cho phép giải thoát không phạt khi bóng lún trong một phần khu vực chung, nơi có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng cỏ fairway. [Các mặt cỏ xếp lớp ở phía trên bẫy cát sẽ có chiều cao cỏ cao hơn cỏ fairway theo Luật địa phương này.] Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu F-2.2 Luật 16.3 được điều chỉnh như sau: Không được giải thoát khi bóng lún trong [mặt cỏ xếp lớp] [thành đất] ở phía trên bẫy cát. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-3
Quy định mặt sân đang sửa chữa là một phần của vật cản bên cạnh
Mục đích của luật. Mặt sân đang sửa chữa có thể nằm ngay bên cạnh một vật cản cố định. Ví dụ: một bồn hoa mà Hội đồng đã quy định là mặt sân đang sửa chữa có đường xe điện chạy quanh hoặc khu vực gần đường xe điện đã bị hư hỏng do giao thông trên đường xe điện đó. Điều này có thể dẫn tới các tình huống giải thoát phức tạp. Sau khi giải thoát khỏi một điều kiện, người chơi có thể bị ảnh hưởng bởi một điều kiện khác; và sau khi giải thoát khỏi điều kiện đó, người chơi có thể lại bị ảnh hưởng bởi điều kiện đầu tiên. Cho dù tình huống này đã được quy định trong định nghĩa “điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất”, Hội đồng có thể quy định cả hai điều kiện này là một điều kiện sân bất thường để cho phép người chơi được giải thoát một lần. Khi làm điều này, mặt sân đang sửa chữa nên được nối với vật cản cố định bằng các vạch kẻ trắng hoặc một cách rõ ràng khác. Các Luật địa phương mẫu sau đây là ví dụ để giải quyết các tình huống này: Luật địa phương mẫu F-3.1 Khi sử dụng vạch kẻ trắng kể đánh dấu mặt sân đang sửa chữa: “Khi các vạch kẻ trắng đánh dấu mặt sân đang sửa chữa được nối với [đường hoặc lối đi nhân tạo hoặc vật cản khác], chúng được xem là một điều kiện sân bất thường khi thực hiện giải thoát theo Luật 16.1.” Luật địa phương mẫu F-3.2 Khi không sử dụng vạch kẻ trắng kể đánh dấu mặt sân đang sửa chữa: “Khi các khu vực mặt đất bị hư hỏng được nối với [đường hoặc lối đi nhân tạo hoặc vật cản khác], chúng được xem là một điều kiện sân bất thường khi thực hiện giải thoát theo Luật 16.1.” Luật địa phương mẫu F-3.3 Đối với các khu vực cảnh quan như bồn hoa được bao quanh bởi một vật cản cố định như là con đường: “Khi [mô tả khu vực, như là các khu vực cảnh quan] được bao quanh bởi một con đường hoặc lối đi nhân tạo (bao gồm tất cả những gì đang mọc bên trong đó), chúng là một điều kiện sân bất thường khi thực hiện giải thoát theo Luật 16.1.”
F-4
Hư hỏng nặng do mưa lớn hoặc giao thông
Mục đích của luật. Khi mưa lớn dẫn đến nhiều hư hỏng nặng trên sân (ví dụ như các đường rãnh lớn do phương tiện giao thông hoặc dấu chân khán giả gây ra), và việc quy định chúng bằng cọc hoặc vạch kẻ là không khả thi, Hội đồng có thể cho các hư hỏng đó là mặt sân đang sửa chữa. Luật địa phương mẫu F-4 Mặt sân đang sửa chữa bao gồm các khu vực bị hư hỏng một bất thường, như các khu vực lưu thông của khán giả hoặc các phương tiện khác kết hợp với điều kiện ẩm ướt gây biến dạng lớn đến bề mặt đất, nhưng chỉ khi được quy định bởi một trọng tài hoặc thành viên mà Hội đồng ủy nhiệm. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-5
Vật cản cố định ở gần khu vực gạt bóng
Mục đích của luật. Khi bóng ở bất kỳ đâu trừ trên khu vực gạt bóng, sẽ không có ảnh hưởng theo Luật 16.1 bởi một vật cản cố định ở trên hướng đánh. Theo đó, thường sẽ không được giải thoát không phạt trong tình huống đó. Tuy nhiên, nếu cỏ xung quanh khu vực gạt bóng (cổ green) được cắt rất ngắn, theo đó đa số người chơi sẽ chọn gạt bóng từ đó, các vật cản cố định ở gần khu vực gạt bóng khi đó sẽ có thể ảnh hưởng đến các cú đánh đó. Trong trường hợp đó, Hội đồng có thể cho thêm một lựa chọn giải thoát theo Luật 16.1 khi bóng của người chơi ở trong khu vực chung và một vật cản cố định ở gần khu vực gạt bóng nằm trên hướng đánh của người chơi đó. Hội đồng có thể chỉ cho phép giải thoát này trong một số tình huống nhất định, như là chỉ ở một vài hố hoặc một vài vật cản, hoặc chỉ khi cả bóng và vật cản ở trong khu vực chung, nơi có cỏ cắt thấp hơn hoặc bằng chiều cao cỏ fairway. Luật địa phương mẫu F-5.1 “Có thể thực hiện giải thoát khỏi ảnh hưởng bởi một vật cản cố định theo Luật 16.1. Người chơi có thêm một lựa chọn giải thoát khi vật cản cố định đó ở trên hoặc gần với khu vực gạt bóng và trên hướng đánh: Bóng ở trong khu vực chung. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b nếu một vật cản cố định:
  • Ở trên hướng đánh, và:
    • Trên hoặc trong vòng hai chiều-dài-gậy-đo từ khu vực gạt bóng, và
    • Trong vòng hai chiều-dài-gậy-đo từ bóng.
Phải thực hiện giải thoát hoàn toàn, bao gồm ảnh hưởng vật lý và ảnh hưởng hướng đánh. Ngoại lệ - Không được giải thoát nếu không hợp lý. Không được giải thoát theo Luật địa phương này nếu người chơi chọn hướng đánh không hợp lý. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu F-5.2 Luật địa phương mẫu F-5.1 được áp dụng với quy định sau ở đoạn văn thứ hai: “Luật địa phương này chỉ được áp dụng khi cả bóng và vật cản ở trong khu vực chung, nơi có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng với chiều cao cỏ fairway.”
F-6
Không được giải thoát khỏi điều kiện sân bất thường khi chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng
Mục đích của luật. Hội đồng có thể từ chối cho phép giải thoát khỏi ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi bởi các điều kiện như hố đào động vật, do ảnh hưởng đến thế đứng không gậy tác động nhiều đến cú đánh, hoặc nếu ảnh hưởng này có thể dẫn đến việc thực hiện giải thoát lặp đi lặp lại bởi các điều kiện tương tự gần đó. Luật địa phương mẫu F-6 Luật 16.1a(1) được điều chỉnh như sau: Không được giải thoát nếu [điều kiện] chỉ ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi.”.
F-7
Giải thoát khỏi vết cỏ vá
Mục đích của luật. Phần sân được đắp cỏ mới thường được đánh dấu là mặt sân đang sửa chữa cho đến khi cỏ đủ lớn và ổn định. Nhưng dù khi khu vực cỏ vá này không còn cần được đánh dấu là mặt sân đang sửa chữa, Hội đồng vẫn có thể cho phép giải thoát khỏi chúng khi:
  • Bóng nằm trong các vết cỏ vá.
  • Vết cỏ vá ảnh hưởng đến khu vực swing dự kiến của người chơi.
Khi các vết cỏ vá này chỉ ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi, giải thoát không phạt là không cần thiết. Luật địa phương mẫu F-7 “Nếu bóng của người chơi nằm trong hoặc chạm vào khu vực cỏ mới đắp hoặc vết cỏ vá ảnh hưởng đến khu vực swing dự kiến của người chơi: (a) Bóng ở trong khu vực chung. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b. (b) Bóng ở trên khu vực gạt bóng. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1d. Tuy nhiên, không được giải thoát khi chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi. Tất cả các vết cỏ vá trong một khu cỏ mới đắp được xem như là một vết cỏ vá khi thực hiện giải thoát. Nghĩa là nếu người chơi vẫn bị ảnh hưởng bởi một vết cỏ vá sau khi thả bóng, người chơi phải thực hiện theo quy định của Luật 14.3c(2) cho dù bóng vẫn ở trong vòng một chiều-dài-gậy-đo từ điểm tham chiếu. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-8
Giải thoát khỏi các vết nứt trên mặt đất
Mục đích của luật. Trong một số trường hợp, một vài nơi trên sân sẽ bị ảnh hưởng bởi các vết nứt trên mặt đất. Thế nằm của bóng có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu bóng nằm trong vết nứt đó, trong khi thế đứng của người chơi thì có thể không bị ảnh hưởng nhiều bởi điều kiện này. Khi đó, có thể áp dụng Luật địa phương cho phép giải thoát đối với thế nằm của bóng và khu vực swing dự kiến. Luật địa phương mẫu F-8 “Các vết nứt trên mặt đất [khu vực cụ thể, như là một phần của khu vực chung có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng với chiều cao cỏ fairway] là mặt sân đang sửa chữa. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b. [Tuy nhiên, không được giải thoát khi chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi.] Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-9
Giải thoát khỏi các rễ cây trên hoặc gần fairway
Mục đích của luật. Khi có các rễ cây lộ thiên trên fairway, sẽ không công bằng khi không cho người chơi được thực hiện giải thoát khỏi chúng. Khi đó, Hội đồng có thể xem các rễ cây này là mặt sân đang sửa chữa và cho phép giải thoát không phạt khỏi chúng theo Luật 16.1b. Trong trường hợp các rễ cây này ở gần fairway, Hội đồng cũng có thể quy định các rễ cây ở trong một khoảng cách nhất định tính từ mép fairway (ví dụ như bốn chiều-dài-gậy-đo) là mặt sân đang sửa chữa mà từ đó đươc giải thoát không phạt theo Luật 16.1b. Khi làm thế, Hội đồng có thể chỉ cho giải thoát khi có ảnh hưởng đối với thế nằm của bóng và khu vực swing dự kiến. Luật địa phương mẫu F-9 “Nếu bóng của người chơi ở trong khu vực chung và có ảnh hưởng bởi các rễ cây lộ thiên ở trong [khu vực sân cụ thể, như là trong khu vực chung có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng chiều cao cỏ fairway hoặc trong khu cỏ cao trong khoảng cách nhất định tính theo chiều-dài-gậy-đo từ mép fairway], các rễ cây này là mặt sân đang sửa chữa. Người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1b. [Tuy nhiên, không được giải thoát khi chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi.] color_lightBlue} Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-10
Hư hỏng do động vật gây ra
Mục đích của luật. Động vật có thể gây hư hỏng diện rộng trên sân, làm cho việc đánh dấu tất cả các khu vực hư hỏng này là mặt sân đang sửa chữa là không thực tế. Ngoài ra, một số hư hỏng do động vật gây ra có thể không thuộc phạm vi quy định của Luật 16.1. Luật địa phương mẫu này hướng dẫn cách mà Hội đồng có thể giải quyết vấn đề này. Nếu động vật, bao gồm côn trùng, gây ra hư hỏng trên sân, Hội đồng có thể xem các hư hỏng này là mặt sân đang sửa chữa mà được giải thoát khỏi chúng theo Luật 16.1. Có thể làm điều này bằng cách quy định các khu vực hoặc điều kiện thỏa một yêu cầu nào đó thay vì đánh dấu tất cả chúng. Hội đồng có thể chỉ cho giải thoát khi có ảnh hưởng đối với thế nằm của bóng và khu vực swing dự kiến. Luật địa phương mẫu F-10 “Các khu vực hư hỏng bên trong [khu vực sân cụ thể, như là khu vực chung] do [loại động vật] gây ra là mặt sân đang sửa chữa mà từ đó có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b. [Tuy nhiên, không được giải thoát khi chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi.] Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-11
Tổ kiến
Mục đích của luật. Tổ kiến là vật thể tự nhiên rời và có thể được loại bỏ theo Luật 15.1. Chúng không phải là hố đào động vật (mà từ đó được giải thoát không phạt theo Luật 16.1). Nhưng trong một số trường hợp, sẽ không thể hoặc rất khó khăn trong việc loại bỏ các tổ kiến này (ví dụ: tổ kiến rất lớn, cứng hoặc có hình nón). Khi đó, Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương cho phép người chơi lựa chọn xem các tổ kiến này là mặt sân đang sửa chữa. Không cần phải áp dụng Luật địa phương này cho các tổ kiến lửa do kiến lửa là động vật nguy hiểm mà có thể giải thoát không phạt theo Luật 16.2. Luật địa phương mẫu F-11 “[Mô tả loại tổ kiến] các tổ kiến trên sân, tùy người chơi chọn, có thể là vật thể tự nhiên rời (mà có thể được loại bỏ theo Luật 15.1) hoặc mặt sân đang sửa chữa (mà có thể được giải thoát khỏi chúng theo Luật 16.1). Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-12
Phân động vật
Mục đích của luật. Phân chim hoặc động vật khác là vật thể tự nhiên rời mà có thể được loại bỏ theo Luật 15.1. Nhưng khi có quan ngại về ảnh hưởng của phân động vật đến cuộc chơi, Hội đồng có thể cho người chơi lựa chọn xem chúng là mặt sân đang sửa chữa và có thể giải thoát khỏi chúng theo Luật 16.1. Trên khu vực gạt bóng, nếu việc xem phân động vật là mặt sân đang sửa chữa không dẫn đến việc giải thoát hoàn toàn, Hội đồng có thể cho phép người chơi sử dụng dụng cụ bảo dưỡng để loại bỏ chúng khỏi hướng đánh mà không bị phạt, cho dù sẽ cải thiện hướng đánh hoặc các điều kiện ảnh hưởng đến cú đánh khác khi làm thế. Luật địa phương mẫu F-12 “Phân [mô tả loại phân được giải thoát, như là phân ngỗng, phân chó], tùy người chơi chọn, có thể là:
  • Vật thể tự nhiên rời, mà có thể được loại bỏ theo Luật 15.1, hoặc
  • Mặt sân đang sửa chữa, mà có thể được giải thoát khỏi chúng theo Luật 16.1.
[Nếu phân ở trên khu vực gạt bóng, người chơi cũng có thể sử dụng dụng cụ, được bố trí gần khu vực gạt bóng, để loại bỏ chúng khỏi hướng đánh. Nếu việc loại bỏ này làm cải thiện hướng đánh hoặc các điều kiện ảnh hưởng đến cú đánh khác, sẽ không bị phạt theo Luật 8.1a.] Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-13
Hư hỏng do dấu chân, móng vuốt động vật
Mục đích của luật. Các dấu móng vuốt của động vật như là hươu hoặc nai có thể làm hư hỏng mặt sân. Có thể sửa chữa các hư hỏng này trên khu vực gạt bóng (xem Luật 13.1), nhưng không được giải thoát khỏi chúng ở các nơi khác trên sân. Hội đồng có thể cho phép người chơi được giải thoát khỏi các hư hỏng này, là mặt sân đang sửa chữa, mà không phải đánh dấu tất cả chúng. Do hư hỏng gây ra bởi động vật có thể được sửa trên khu vực gạt bóng, Hội đồng có thể xem các hư hỏng đó là mặt sân đang sửa chữa hoặc cho phép người chơi sửa chúng. Luật địa phương mẫu F-13 “Các hư hỏng do móng vuốt động vật gây ra là mặt sân đang sửa chữa, mà từ đó được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1. [Nhưng ở trên khu vực gạt bóng, Luật 16.1 không được áp dụng và các hư hỏng này có thể được sửa theo Luật 13.1.] Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-14
Vật thể tự nhiên rời chất đống
Mục đích của luật. Ở một vài thời điểm trong năm, vật thể tự nhiên rời như lá cây, hạt hoặc quả cây tích tụ thành đống có thể gây khó khăn cho người chơi trong việc tìm và đánh bóng. Hội đồng có thể xem các đống này ở trong khu vực chung hoặc trong bẫy cát là mặt sân đang sửa chữa mà từ đó được phép giải thoát theo Luật 16.1. Luật địa phương mẫu này không thể được sử dụng cho khu vực phạt do không được giải thoát khỏi điều kiện sân bất thường bên trong khu vực phạt. Chỉ nên giới hạn Luật địa phương này ở các hố có vấn đề với sự tích tụ của các vật thể tự nhiên rời nói trên và nên rút lại Luật địa phương này khi điều kiện cho phép. Luật địa phương mẫu F-14 “Khi chơi hố [hố], các khu vực mặt đất có sự tích tụ tạm thời của [mô tả loại vật thể tự nhiên rời] ở trong khu vực chung hoặc trong bẫy cátmặt sân đang sửa chữa mà từ đó được phép giải thoát theo Luật 16.1. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-15
Nấm trên khu vực gạt bóng
Mục đích của luật. Nếu nấm mọc trên khu vực gạt bóng có thể gây ảnh hưởng đến cuộc chơi, Hội đồng có thể xem chúng là mặt sân đang sửa chữa để người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1d. Luật địa phương mẫu F-15 “Nấm mọc trên khu vực gạt bóngmặt sân đang sửa chữa mà từ đó được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1d. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-16
Bẫy cát ngập nước
Mục đích của luật. Nếu một hoặc nhiều bẫy cát bị ngập nước (nước đọng tạm thời), giải thoát không phạt theo Luật 16.1c sẽ không đủ công bằng do người chơi chỉ có thể thực hiện giải thoát tối đa có thể hoặc giải thoát ra ngoài bẫy cát với một gậy phạt. Do đó, Hội đồng có thể quy định một số bẫy cát là mặt sân đang sửa chữa trong khu vực chung mà từ đó được phép giải thoát không phạt ra bên ngoài bẫy cát đó. Hội đồng chỉ nên áp dụng Luật địa phương này cho một vài bẫy cát cụ thể và không được phép áp dụng Luật địa phương quy định tất cả các bẫy cát ngập hoàn toàn bởi nước đọng tạm thời là mặt sân đang sửa chữa. Lý do là trong một vòng đấu, một số bẫy cát có thể chuyển từ tình trạng ngập hoàn toàn sang ngập một phần, theo đó sẽ không hợp lý khi một số người chơi được phép giải thoát không phạt khỏi bẫy cát (được quy định là mặt sân đang sửa chữa), trong khi một số khác không được (do bẫy cát không ngập hoàn toàn khi bóng của họ ở trong đó). Luật địa phương mẫu F-16 Bẫy cát bị ngập nước (nước đọng tạm thời) ở [vị trí của bẫy cát, ví dụ: bên trái green hố 5] là mặt sân đang sửa chữa trong khu vực chung. Nó không phải là bẫy cát trong vòng đấu. Người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1b. Tất cả các bẫy cát khác trên sân, có nước đọng tạm thời hay không, vẫn là bẫy cát theo luật. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-17
Tất cả các con đường và lối đi là vật cản
Mục đích của luật. Khi các con đường và lối đi, mà không phải là bề mặt nhân tạo, có thể ảnh hưởng đến cuộc chơi, Hội đồng có thể quy định chúng là vật cản cố định mà từ đó được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1. Luật địa phương mẫu F-17 “Tất cả các con đường và lối đi trên sân [hoặc xác định một loại hoặc vị trí cụ thể], cho dù không phải là bề mặt nhân tạo, là vật cản cố định mà từ đó được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-18
Quy định vật thể có thể di dời được là cố định
Mục đích của luật. Hội đồng có thể quy định một số vật thể di dời được trên sân, như là các cây cọc (trừ các cọc xác định ranh giới sân), thùng rác và bảng chỉ hướng, là cố định để ngăn người chơi di dời chúng. Hội đồng nên xem xét tác động của Luật địa phương này từ trước do nó có thể dẫn đến việc người chơi vi phạm Luật 8.1 do di dời một vật cản được quy định là cố định. Luật địa phương mẫu F-18 “Tất cả các cây cọc [hoặc mô tả vật cản di dời được mà sẽ được quy định là cố định] trên sânvật cản cố định mà từ đó được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1. Không được giải thoát theo Luật 15.2. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung."
F-19
Rãnh viền gần khu vực gạt bóng
Mục đích của luật. Các rãnh viền đôi khi được cắt cạnh khu vực gạt bóng để ngăn cỏ từ bên ngoài mọc vào bên trên khu vực gạt bóng. Do có thể khó khăn khi đánh bóng từ các rãnh này, Hội đồng có thể quy định chúng là mặt sân đang sửa chữa mà từ đó được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1. Chỉ nên cho phép giải thoát khi có ảnh hưởng đối với thế nằm của bóng và khu vực swing dự kiến. Luật địa phương mẫu F-19 “Các rãnh viền ở gần khu vực gạt bóngmặt sân đang sửa chữa. Nếu bóng của người chơi nằm trong hoặc chạm vào rãnh viền hoặc rãnh viền ảnh hưởng đến khu vực swing dự kiến của người chơi: (a) Bóng ở trong khu vực chung. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b. (b) Bóng ở trên khu vực gạt bóng. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1d. Tuy nhiên, không được giải thoát khi chỉ có ảnh hưởng đến hướng đánh hoặc thế đứng của người chơi. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-20
Rãnh thoát nước bê tông
Mục đích của luật. Các rãnh thoát nước bê tông hẹp thường có trên các sân mà việc ngập nước thường xảy ra. Chúng có thể tạo ra các vấn đề sau:
  • Các rãnh này là khu vực phạt theo quy định của luật.
  • Chúng thường chạy dọc theo đường xe điện và giống với vật cản cố định hơn là khu vực phạt.
Hội đồng có thể quy định các rãnh thoát nước này là vật cản cố định trong khu vực chung thay vì khu vực phạt. Xem Luật địa phương mẫu B-4 đối với trường hợp quy định một khu vực chứa nước mở là một phần của khu vực chung. Luật địa phương mẫu F-20 “Các rãnh thoát nước làm bằng vật liệu nhân tạo chạy dọc theo đường xe điện là vật cản cố định trong khu vực chung và là một phần của đường xe điện. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-21
Vạch kẻ hoặc chấm sơn
Mục đích của luật. Nếu Hội đồng vẽ sơn (vạch hoặc chấm) trên khu vực gạt bóng hoặc trong khu vực chung, ở nơi có cỏ cao bằng hoặc thấp hơn chiều cao cỏ fairway (như là để đánh dấu khoảng cách), Hội đồng có thể quy định các khu vực này là điều kiện sân bất thường mà từ đó được phép giải thoát không phạt theo Luật 16.1. Khi các vạch hoặc chấm sơn đó chỉ ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi, không cần cho phép giải thoát. Hoặc Hội đồng có thể không cho phép giải thoát không phạt khỏi các vạch và chấm sơn như thế. Luật địa phương mẫu F-21.1 “Các vạch kẻ và chấm sơn trên khu vực gạt bóng hoặc trong khu vực chung, ở nơi có cỏ cao bằng hoặc thấp hơn chiều cao cỏ fairway là mặt sân đang sửa chữa mà từ đó được phép giải thoát theo Luật 16.1. Tuy nhiên, không được giải thoát khi chỉ có ảnh hưởng đến thế đứng của người chơi. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu F-21.2 “Không được giải thoát không phạt khỏi các vạch kẻ và chấm sơn [mô tả khu vực, ví dụ như các khu vực có cỏ cao hơn chiều cao cỏ fairway]. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-22
Dây và cáp tạm thời
Mục đích của luật. Dây và cáp tạm thời thường được chạy trên sân cho mục đích truyền thông và cung cấp năng lượng. Các dây cáp này có thể ở trên mặt đất, ở trên cao hoặc trong lòng đất. Các dây cáp này thường không có mặt trên sân và không phải là một phần của các thử thách của cuộc chơi, nên Hội đồng có thể cho thêm các lựa chọn giải thoát khi chúng ảnh hưởng đến cuộc chơi. Luật địa phương mẫu F-22 “Các dây và cáp điện và truyền thông (và các trụ đỡ hoặc thảm che chúng) là vật cản: 1. Nếu chúng có thể được di dời với nỗ lực hợp lý mà không làm hư hỏng vật cản đó hoặc sân, chúng là vật cản di dời được và người chơi có thể di dời chúng mà không bị phạt theo Luật 15.2. 2. Nếu không, chúng là vật cản cố định mà từ đó người chơi có thể thực hiện giải thoát như sau: (a)Bóng ở trong khu vực chung hoặc bẫy cát. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1. (b)Bóng ở trong khu vực phạt. Luật 16.1b được điều chỉnh để cho phép người chơi thêm một lựa chọn để thực hiện giải thoát không phạt khỏi ảnh hưởng bởi các vật cản cố định bên trong khu vực phạt này bằng việc thả và đánh bóng từ khu vực giải thoát sau:
  • Điểm tham chiếu: Điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất ở trong khu vực phạt đó.
  • Kích thước của khu vực giải thoát đo từ điểm tham chiếu: Một chiều-dài-gậy-đo, nhưng với các giới hạn sau:
  • Giới hạn của khu vực giải thoát:
    • Phải ở trong cùng khu vực phạt với nơi bóng đến nằm yên,
    • Phải không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu, và
    • Phải được giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả ảnh hưởng bởi vật cản cố định.
3. Nếu biết hoặc gần như chắc chắn là bóng của người chơi chạm vào dây hoặc cáp tạm thời trên cao, người chơi phải thực hiện lại cú đánh bằng cách đánh bóng gốc hoặc một bóng khác từ vị trí của cú đánh vừa được thực hiện đó (xem Luật 14.6). Nếu người chơi thực hiện lại cú đánh nhưng đánh sai vị trí, họ sẽ nhận hình phạt chung theo Luật 14.7. Nếu người chơi không thực hiện lại cú đánh, họ sẽ nhận hình phạt chungcú đánh được tính, nhưng người chơi đã không đánh sai vị trí. 4. Các rãnh chạy dây cáp đã được phủ cỏ bên trong khu vực chungmặt sân đang sửa chữa, cho dù không được đánh dấu. Người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo Luật 16.1. Tuy nhiên, có hai ngoại lệ:
  • Ngoại lệ 1 – Bóng chạm vào dây cáp nhô trên mặt đất: Nếu bóng chạm vào phần nhô cao khỏi mặt đất, cú đánh đó được tính và bóng phải được đánh từ nơi nó nằm.
  • Ngoại lệ 2 – Bóng chạm vào dây chằng hỗ trợ vật cản cố định tạm thời: Dây chằng hỗ trợ một vật cản cố định tạm thời (TIO) là một phần của TIO đó và không được quy định bởi Luật địa phương này, trừ khi Hội đồng quy định các dây chằng đó là dây và cáp tạm thời trên cao theo Luật địa phương này.
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-23
Vật cản cố định tạm thời
Mục đích của luật. Khi vật cản được bố trí tạm thời trên hoặc gần sân, Hội đồng nên quy định chúng là vật cản di dời được (xem Luật 15.2), vật cản cố định (xem Luật 16.1) hoặc vật cản cố định tạm thời (“TIOs”). TIOs (như là khán đài hoặc nhà lều) thường không có trên sân và do đó không được xem là một phần của các thử thách của cuộc chơi. Do tính chất tạm thời của chúng, Luật địa phương này cung cấp thêm một lựa chọn giải thoát, mà không tồn tại đối với vật cản cố định, cho dù người chơi có thể xem các TIO này là vật cản cố định và sử dụng quy trình giải thoát ở Luật 16. Lựa chọn giải thoát thêm của Luật địa phương này bao gồm quy định cho phép người chơi thực hiện giải thoát khi TIO nằm trên hướng nhìn thẳng từ bóng của họ đến hố cờ (gọi là “giải thoát hướng nhìn”) bằng việc di chuyển sang một bên, đến nơi có cùng khoảng cách đến hố cờ để TIO không còn trên hướng nhìn giữa bóng của người chơi và hố cờ nữa (gọi là di chuyển dọc theo đường cung có tâm là hố cờ). Khi người chơi thực hiện giải thoát khỏi một TIO, theo Luật địa phương này hoặc theo Luật 16, người chơi được đảm bảo có giải thoát hoàn toàn khỏi ảnh hưởng trực tiếp. Nhưng chỉ khi thực hiện giải thoát theo lựa chọn thêm của Luật địa phương này, người chơi mới thường được đảm bảo có giải thoát hoàn toàn khỏi ảnh hưởng hướng nhìn bởi TIO. Luật địa phương mẫu F-23 Định nghĩa của TIO: Vật cản cố định tạm thời (TIO) là kiến trúc được bố trí tạm thời ở trên hoặc ở gần sân, thường cho một giải đấu nào đó, và là cố định hoặc không thỏa định nghĩa của vật cản di dời được. Ví dụ của TIO là nhà lều, bảng điểm, khán đài, tháp truyền hình và nhà vệ sinh. TIO bao gồm các dây chằng nối với chúng, trừ khi Hội đồng quy định các dây chằng này là vật cản cố định hoặc dây hoặc cáp tạm thời trên cao theo Luật địa phương mẫu F-22. Mép ngoài cùng của TIO được sử dụng để xác định bóng có ở bên dưới TIO hoặc TIO nằm trên hướng nhìn giữa bóng của người chơi và hố cờ hay không. Vạch kẻ hoặc cọc có thể được sử dụng để đánh dấu ranh giới của một TIO hoặc để nối nhiều TIO thành một TIO lớn hơn. TIO khác với vật cản cố định. Luật địa phương này cung cấp thêm một phương án giải thoát khỏi ảnh hưởng bởi TIO. Nghĩa là người chơi có thể chọn thực hiện giải thoát bằng cách sử dụng một trong các phương án sau:
  • Giải thoát khỏi một điều kiện sân bất thường theo Luật 16.1, xem TIO là một vật cản cố định (cũng có thể sử dụng phương án này khi bóng ở trong một khu vực phạt hoặc khi TIO ở ngoài biên), hoặc
  • Lựa chọn giải thoát thêm theo Luật địa phương này.
a. Khi nào được phép giải thoát Thường được phép giải thoát khỏi một TIO khi có ảnh hưởng trực tiếp hoặc ảnh hưởng hướng nhìn bởi TIO đó. Ảnh hưởng theo Luật địa phương này là:
  • Ảnh hưởng trực tiếp,
  • Ảnh hưởng hướng nhìn, hoặc
  • Cả hai ảnh hưởng: trực tiếp và hướng nhìn.
(1) Nghĩa của ảnh hưởng trực tiếp bởi một TIO.Ảnh hưởng trực tiếp tồn tại khi:
  • Bóng của người chơi chạm hoặc nằm trong hoặc trên một TIO, hoặc
  • TIO ảnh hưởng đến thế đứng hoặc khu vực swing dự kiến của người chơi.
(2) Nghĩa của ảnh hưởng hướng nhìn bởi một TIO.Ảnh hưởng hướng nhìn tồn tại khi:
  • Bóng của người chơi chạm hoặc nằm trong, trên hoặc dưới một TIO, hoặc
  • TIO ở trên hướng nhìn đến hố cờ của người chơi (nghĩa là TIO nằm trên đường thẳng nối vị trí của bóng và hố cờ), hoặc
  • Bóng nằm trong vòng một chiều-dài-gậy-đo, tính theo đường cung có tâm là hố cờ, từ điểm mà TIO sẽ nằm trên hướng nhìn từ bóng đến hố cờ (khu vực rộng một chiều-dài-gậy-đo này thường được gọi là “hành lang”).
(3) Khi nào không được giải thoát cho dù có ảnh hưởng.Nếu bóng chạm hoặc nằm trong hoặc trên một TIO, luôn được giải thoát. Nhưng khi bóng không chạm hoặc không nằm trong hoặc trên TIO, sẽ không được giải thoát theo Luật địa phương này nếu một trong các điều sau xảy ra:
  • Từ ảnh hưởng trực tiếp hoặc ảnh hưởng hướng nhìn:
    • Không được giải thoát khi đồng thời có ảnh hưởng bởi một điều khác, mà người chơi không được giải thoát không phạt từ điều đó, làm cho việc đánh bóng từ nơi nó nằm là không hợp lý (như khi người chơi không thể thực hiện cú đánh do bóng nằm trong một bụi cây bên ngoài TIO), và
    • Không được giải thoát khi ảnh hưởng chỉ tồn tại do người chơi chọn gậy, thế đứng, swing hoặc hướng đánh không hợp lý trong tình huống đó; và
  • Từ ảnh hưởng hướng nhìn:
    • Không được giải thoát khi việc người chơi có thể đánh bóng đủ xa để bóng bay đến vị trí của TIO là không hợp lý, và
    • Không được giải thoát khi người chơi không thể thể hiện/chứng minh được là họ có thể thực hiện được cú đánh mà có thể thỏa cả hai điều: a) TIO (bao gồm hành lang) nằm trên hướng đánh của cú đánh đó và b) cú đánh đó đưa bóng đến một vị trí ở trên đường thẳng nối đến hố cờ.
b. Giải thoát đối với bóng trong khu vực chung Nếu bóng của người chơi nằm trong khu vực chung và có ảnh hưởng bởi TIO (bao gồm TIO ở ngoại biên - OB), người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt bằng cách thả bóng gốc hoặc một bóng khác trong khu vực giải thoát sau:
  • Điểm tham chiếu: Điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất trong khu vực chung, nơi không còn bị cả ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng hướng nhìn.
  • Kích thước của khu vực giải thoát đo từ điểm tham chiếu: Toàn bộ khu vực trong vòng một chiều-dài-gậy-đo từ điểm tham chiếu, nhưng với các giới hạn sau:
  • Giới hạn của khu vực giải thoát:
    • Phải ở trong khu vực chung,
    • Phải không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu, và
    • Phải được giải thoát hoàn toàn khỏi cả ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng hướng nhìn bởi TIO đó.
Nếu người chơi bị ảnh hưởng trực tiếp bởi TIO, thay vì sử dụng quy trình giải thoát nói trên, họ có thể sử dụng quy trình giải thoát khỏi một điều kiện sân bất thườngLuật 16.1, xem TIO như là một vật cản cố định. Cũng có thể sử dụng quy trình giải thoát ở Luật 16.1 khi bóng ở trong một khu vực phạt hoặc khi TIO ở ngoài biên. Xem phần f của Luật địa phương này để biết cách mà người chơi có thể áp dụng các luật giải thoát khác. c. Giải thoát đối với bóng trong bẫy cát hoặc khu vực phạt Nếu bóng của người chơi nằm trong một bẫy cát hoặc một khu vực phạt và có ảnh hưởng bởi TIO (bao gồm TIO ở ngoại biên - OB), người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt hoặc giải thoát có phạt: (1) Giải thoát không phạt: Đánh bóng từ bẫy cát hoặc khu vực phạt. Người chơi có thể thực hiện giải thoát không phạt theo phần b, tuy nhiên điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất, nơi không còn bị ảnh hưởng, và khu vực giải thoát phải ở trong bẫy cát hoặc khu vực phạt đó. Nếu không có điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất như thế trong bẫy cát hoặc khu vực phạt đó, người chơi vẫn có thể thực hiện giải thoát không phạt bằng cách sử dụng điểm giải thoát tối đa có thể trong bẫy cát hoặc khu vực phạt đó làm điểm tham chiếu. (2) Giải thoát có phạt: Đánh bóng từ bên ngoài bẫy cát hoặc khu vực phạt. Vớimột gậy phạt, người chơi có thể thả bóng gốc hoặc một bóng khác và đánh bóng đó từ trong khu vực giải thoát sau:
  • Điểm tham chiếu: Điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất, không gần hố cờ hơn, nơi không còn bị cả ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng hướng nhìn, ở bên ngoài bẫy cát hoặc khu vực phạt đó.
  • Kích thước của khu vực giải thoát đo từ điểm tham chiếu: Toàn bộ khu vực trong vòng một chiều-dài-gậy-đo từ điểm tham chiếu, nhưng với các giới hạn sau:
  • Giới hạn của khu vực giải thoát:
    • Có thể ở trong bất kỳ khu vực sân nào, trừ chính bẫy cát hoặc khu vực phạt đó hoặc khu vực gạt bóng,
    • Phải không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu, và
    • Phải được giải thoát hoàn toàn khỏi cả ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng hướng nhìn bởi TIO đó.
Nếu người chơi bị ảnh hưởng trực tiếp bởi TIO, thay vì sử dụng quy trình giải thoát nói trên, họ có thể sử dụng quy trình giải thoát khỏi một điều kiện sân bất thườngLuật 16.1c, xem TIO như là một vật cản cố định. Cũng có thể sử dụng quy trình giải thoát ở Luật 16.1b khi bóng ở trong một khu vực phạt hoặc khi TIO ở ngoài biên. Nếu bóng ở trong một khu vực phạt, điểm tham chiếu và khu vực giải thoát phải ở trong chính khu vực phạt đó. Xem phần f của Luật địa phương này để biết cách mà người chơi có thể áp dụng các luật giải thoát khác. d. Giải thoát khi bóng ở trong TIO nhưng không được tìm thấy Nếu bóng của người chơi không được tìm thấy nhưng biết hoặc gần như chắc chắn là đã đến nằm yên bên trong một TIO:
  • Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật địa phương này, sử dụng điểm ước lượng nơi bóng cắt ranh giới của TIO trên sân lần cuối cùng làm vị trí của bóng khi tìm điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất.
  • Một khi người chơi đưa một bóng khác vào trong cuộc để thực hiện giải thoát theo cách này:
    • Bóng gốc không còn trong cuộc nữa và phải không được đánh.
    • Điều này đúng cho dù sau đó bóng gốc được tìm thấy trên sân trước khi kết thúc thời gian ba-phút tìm kiếm (xem Luật 6.3b).
Tuy nhiên, nếu không biết hoặc gần như chắc chắn là bóng đã đến nằm yên bên trong một TIO, người chơi phải thực hiện giải thoát gậy-và-khoảng-cách theo Luật 18.2a. e. Hội đồng có quyền điều chỉnh quy trình giải thoát khỏi TIO Khi áp dụng Luật địa phương này, Hội đồng có thể điều chỉnh quy trình giải thoát ở phần b và c theo một hoặc cả hai cách sau: (1)Bắt buộc hoặc tùy chọn sử dụng khu thả bóng (Dropping Zone). Hội đồng có thể cho phép hoặc yêu cầu người chơi sử dụng khu thả bóng (là khu vực giải thoát) khi thực hiện giải thoát theo Luật địa phương này. Khi làm thế, Hội đồng có thể có nhiều khu thả bóng cho chỉ ảnh hưởng trực tiếp hoặc chỉ ảnh hưởng hướng nhìn hoặc cho cả hai. (2)Lựa chọn giải thoát hai bên. Hội đồng có thể cho người chơi lựa chọn thực hiện giải thoát về phía bên kia của một TIO, ngoài các lựa chọn giải thoát ở phần b và c của Luật địa phương này. Nhưng lựa chọn giải thoát hai bên sẽ không được áp dụng khi sử dụng quy trình giải thoát ở Luật 16.1. f. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo luật khác (1)Thực hiện giải thoát theo quy trình ở Luật 16.1 hoặc Luật địa phương này. Nếu người chơi bị ảnh hưởng trực tiếp bởi một TIO như định nghĩa ở phần a, người chơi có thể:
  • Sử dụng quy trình giải thoát ở Luật 16.1, hoặc
  • Sử dụng Luật địa phương này.
Nhưng người chơi không thể thực hiện giải thoát theo một trong các lựa chọn này rồi tiếp tục thực hiện giải thoát theo lựa chọn còn lại. Nếu người chơi sử dụng quy trình giải thoát khỏi một điều kiện sân bất thường theo Luật 16.1, họ phải xem TIO như là một vật cản cố định và thực hiện giải thoát dựa vào vị trí của bóng:
  • Trong khu vực chung.Sử dụng quy trình ở Luật 16.1b.
  • Trong bẫy cát.Sử dụng quy trình ở Luật 16.1c.
  • Trong khu vực phạt.Sử dụng quy trình ở Luật 16.1c giống như bóng nằm trong bẫy cát.
  • Trên khu vực gạt bóng.Sử dụng quy trình ở Luật 16.1d.
(2)Thực hiện giải thoát theo Luật 17, 18 hoặc 19. Luật địa phương này không cấm người chơi thực hiện giải thoát theo Luật 17, 18 hoặc 19 thay vì thực hiện giải thoát khỏi TIO theo Luật địa phương này. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-24
Giải thoát không phạt khỏi vật cản cố định bên trong khu vực phạt
Mục đích của luật. Khi bóng của người chơi ở trong một khu vực phạt và có ảnh hưởng bởi một vật cản cố định, không được phép giải thoát không phạt (xem Luật 16.1a(2)). Tuy nhiên, có một số trường hợp mà Hội đồng có thể muốn cho phép giải thoát không phạt đối với một số vật cản cố định bên trong khu vực phạt. Khi sử dụng Luật địa phương này, Hội đồng nên quy định rõ sẽ áp dụng cho vật cản cố định nào (thay vì cho phép giải thoát không phạt cho tất cả các vật cản cố định) và ở hố nào nếu không áp dụng ở tất cả các hố. Luật địa phương mẫu F-24 “Được phép giải thoát theo Luật 16.1b khi có ảnh hưởng bởi [ghi rõ vật cản cố định nào] ở bên trong khu vực phạt ở hố [hố] với các điều chỉnh sau:
  • Điểm tham chiếu: Điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất ở trong khu vực phạt đó.
  • Kích thước của khu vực giải thoát đo từ điểm tham chiếu: Một chiều-dài-gậy-đo, nhưng với các giới hạn sau:
  • Giới hạn của khu vực giải thoát:
    • Phải ở trong cùng khu vực phạt với nơi bóng đến nằm yên,
    • Phải không gần hố cờ hơn điểm tham chiếu, và
    • Phải được giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả ảnh hưởng bởi vật cản cố định.
Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-25
Điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất phải được xác định mà không vượt qua bên trên, bên dưới hoặc xuyên qua một vật cản cố định
Mục đích của luật. Trong một số trường hợp, người chơi có thể bị ảnh hưởng bởi một vật cản cố định, như là một hàng rào hoặc bức tường hẹp, và điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất của họ có thể ở phía bên kia của điều kiện sân bất thường đó, và điều đó có thể có ảnh hưởng lớn và không mong muốn đến kết quả của việc giải thoát. Cho dù người chơi được phép đo vượt hoặc xuyên qua các vật thể, Hội đồng có thể quy định điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất phải được xác định mà không vượt qua bên trên, bên dưới hoặc xuyên qua điều kiện sân bất thường đó. Hội đồng cũng có thể sử dụng Luật địa phương này để ngăn người chơi đo vượt hoặc xuyên qua một vật thể. Luật địa phương mẫu F-25.1 “Khi thực hiện giải thoát theo Luật 16.1, điểm giải thoát hoàn toàn gần nhất phải được xác định mà không vượt qua bên trên, bên dưới hoặc xuyên qua [làm rõ điều kiện sân bất thường và hố]. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a." Luật địa phương mẫu F-25.2 “Khi thực hiện giải thoát khỏi [làm rõ điều kiện sân bất thường và hố], khu vực giải thoát và điểm tham chiếu phải ở cùng về một phía của điều kiện sân bất thường đó. Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
F-26
Các cánh cửa cổng ở tường rào hoặc hàng rào ranh giới
Mục đích của luật. Nếu Hội đồng không muốn cho người chơi được giải thoát không phạt khỏi các cánh cửa đang được đóng ở tường rào hoặc hàng rào ranh giới sân (như khi chúng là lối vào nhà), Hội đồng có thể quy định các cánh cửa này là một phần của vật thể xác định ranh giới sân khi ở vị trí đóng. Hội đồng nên xem xét tác động của Luật địa phương này từ trước do nó có thể dẫn đến việc người chơi vi phạm Luật 8.1 do di dời các cánh cửa nói trên. Luật địa phương mẫu F-26 “Các cánh cửa ở tường rào hoặc hàng rào ranh giới sân là một phần của vật thể xác định ranh giới sân đó khi cánh cửa đó đang được đóng. Không được phép giải thoát khỏi cánh cửa này theo Luật 15.2 hoặc 16.1. Tuy nhiên, cánh cửa đang được mở không phải là một phần của vật thể xác định ranh giới sân và có thể được đóng lại hoặc di chuyển đến một vị trí khác.”
G

Các hạn chế trong việc sử dụng một số trang thiết bị

G-1
Danh sách đầu gậy driver hợp chuẩn
Mục đích của luật. Để loại bỏ các nghi ngờ về tính hợp chuẩn của gậy driver được sử dụng trong một giải đấu, Hội đồng có thể yêu cầu người chơi chỉ sử dụng gậy driver có đầu gậy đã được đánh giá và xác nhận hợp chuẩn theo Luật về trang thiết bị. Danh sách đầu gậy driver hợp chuẩn có trên trang RandA.org. Chỉ khuyến khích sử dụng Luật địa phương này cho các giải đấu dành cho người chơi trình độ cao (các giải đấu chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư trình độ cao). Cho dù không áp dụng Luật địa phương này, tất cả các gậy driver được sử dụng phải hợp chuẩn (thỏa các yêu cầu của Luật về trang thiết bị). Luật địa phương mẫu G-1 “Gậy driver mà người chơi sử dụng để thực hiện cú đánh phải có đầu gậy, với mẫu mã và góc mở mặt gậy (loft), nằm trong Danh sách đầu gậy hợp chuẩn của The R&A. Danh sách này được cập nhật thường xuyên và có trên trang RandA.org. Ngoại lệ - Đầu gậy driver trước 1999: Gậy driver với đầu gậy được sản xuất trước năm 1999 được miễn trừ khỏi Luật địa phương này. Hình phạt khi thực hiện cú đánh với gậy vi phạm Luật địa phương này: Truất quyền thi đấu. Không bị phạt theo Luật địa phương này do chỉ có (nhưng không thực hiện cú đánh với) một gậy driver không có trong Danh sách đầu gậy driver hợp chuẩn.”
G-2
Thông số kỹ thuật của rãnh và chấm đục trên mặt gậy
Mục đích của luật. Từ ngày 01/01/2010, Luật về trang thiết bị đã được điều chỉnh để quy định các thông số kỹ thuật của tất cả các gậy, trừ gậy driver và gậy gạt bóng (putter). Cho đến khi có thông báo mới (trước bốn năm), các gậy đã được sản xuất trước năm 2010 không phải đáp ứng các thông số kỹ thuật này. Tuy nhiên, Hội đồng có thể áp dụng một Luật địa phương yêu cầu người chơi chỉ sử dụng gậy đáp ứng yêu cầu thông số kỹ thuật trong Luật về trang thiết bị hiện hành. Chỉ khuyến khích sử dụng Luật địa phương này cho các giải đấu dành cho người chơi trình độ cao (các giải đấu chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư trình độ cao). Tham khảo cơ sở dữ liệu về trang thiết bị có trên trang RandA.org để hỗ trợ trong việc xác định gậy nào có thể được sử dụng. Luật địa phương mẫu G-2 “Khi thực hiện cú đánh, người chơi phải sử dụng gậy có thông số kỹ thuật thỏa yêu cầu của Luật về trang thiết bị có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Cơ sở dữ liệu về trang thiết bị của gậy gỗ, hybrid, gậy sắt và gậy wedge mà đã được kiểm tra tính hợp chuẩn theo Luật về trang thiết bị hiện hành có trên trang RandA.org. Hình phạt khi thực hiện cú đánh với gậy vi phạm Luật địa phương này: Truất quyền thi đấu. Không bị phạt theo Luật địa phương này do chỉ có (nhưng không thực hiện cú đánh với) một gậy không thỏa yêu cầu về thông số kỹ thuật của rãnh và chấm đục trên mặt gậy.”
G-3
Danh sách bóng hợp chuẩn
Mục đích của luật. Để loại bỏ các nghi ngờ về tính hợp chuẩn của bóng được sử dụng trong một giải đấu, Hội đồng có thể yêu cầu người chơi chỉ sử dụng bóng đã được đánh giá và xác nhận hợp chuẩn theo Luật về trang thiết bị. Danh sách bóng hợp chuẩn được cập nhật hàng tháng và có trên trang RandA.org. Cho dù không áp dụng Luật địa phương này, tất cả các bóng được sử dụng phải hợp chuẩn (thỏa các yêu cầu của Luật về trang thiết bị). Luật địa phương mẫu G-3 “Bóng được sử dụng để thực hiện cú đánh phải nằm trong Danh sách bóng hợp chuẩn hiện hành của The R&A. Danh sách này được cập nhật thường xuyên và có trên trang RandA.org. Nếu bóng không nằm trong Danh sách bóng hợp chuẩn được thả, đặt lại hoặc đặt nhưng chưa được đánh, người chơi có thể sửa lỗi mà không bị phạt theo Luật 14.5. Hình phạt khi thực hiện cú đánh với bóng không có trong Danh sách hiện hành, vi phạm Luật địa phương này: Truất quyền thi đấu."
G-4
Luật một bóng
Mục đích của luật. Để ngăn người chơi sử dụng bóng có đặc tính kỹ thuật khác nhau ở các hố hoặc cú đánh có tính chất khác nhau trong một vòng đấu, Hội đồng có thể yêu cầu người chơi chỉ sử dụng một loại bóng trong Danh sách bóng hợp chuẩn. Mỗi mục (hàng) trong Danh sách bóng hợp chuẩn được xem là một loại bóng khác nhau. Các bóng giống nhau nhưng khác màu sắc sẽ được xem là khác nhau. Chỉ khuyến khích sử dụng Luật địa phương này cho các giải đấu dành cho người chơi trình độ cao (các giải đấu chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư trình độ cao). Luật địa phương mẫu G-4 “Trong vòng đấu, mỗi bóng mà người chơi thực hiện cú đánh vào nó phải có cùng nhãn hiệu và mẫu mã, là một mục trong Danh sách bóng hợp chuẩn hiện hành. Nếu một bóng khác nhãn hiệu và/hoặc mẫu mã được thả, đặt lại hoặc đặt nhưng chưa được đánh, người chơi có thể sửa lỗi mà không bị phạt theo Luật 14.5. Khi sửa lỗi, người chơi phải sử dụng bóng có cùng nhãn hiệu và mẫu mã với loại đã được sử dụng khi bắt đầu vòng đấu đó. Nếu người chơi phát hiện là họ đã đánh bóng vi phạm Luật địa phương này, họ phải quay lại sử dụng bóng có cùng nhãn hiệu và mẫu mã với loại đã được sử dụng khi bắt đầu vòng đấu từ khu vực phát bóng tiếp theo; nếu không người chơi sẽ bịtruất quyền thi đấu. Nếu phát hiện vi phạm khi đang chơi một hố, người chơi có thể hoàn thành hố đó với bóng vi phạm hoặc đặt một bóng đúng nhãn hiệu và mẫu mã ở vị trí mà bóng vi phạm Luật địa phương này đã được nhấc. Hình phạt khi thực hiện cú đánh với bóng vi phạm Luật địa phương này: Người chơi nhậnmột gậy phạt ở mỗi hố mà họ vi phạm Luật địa phương này.”
G-5
Cấm sử dụng thiết bị đo khoảng cách
Mục đích của luật. Mặc dù Luật 4.3 cho phép người sử dụng thiết bị đo khoảng cách (với một số điều kiện), Hội đồng có thể cấm sử dụng các thiết bị đo khoảng cách điện tử. Luật địa phương mẫu G-5 Luật 4.3a(1) được điều chỉnh như sau: Trong vòng đấu, người chơi không được sử dụng thiết bị đo khoảng cách điện tử để thu thập thông tin về khoảng cách. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này – Xem hình phạt ở Luật 4.3."
G-6
Cấm sử dụng phương tiện cơ giới
Mục đích của luật. Hội đồng có thể cấm người chơi sử dụng tất cả các phương tiện cơ giới (như là xe điện) trong vòng đấu. Việc cấm này là hợp lý khi Hội đồng xem việc đi bộ là một phần không thể thiếu khi tham gia thi đấu hoặc khi Hội đồng tin rằng việc sử dụng phương tiện cơ giới là không an toàn hoặc có thể làm hư hỏng sân. Khi áp dụng Luật địa phương này, Hội đồng có thể cho phép sử dụng phương tiện cơ giới một cách hạn chế, như là để vận chuyển người chơi từ một hố này đến hố khác khi các hố này ở cách xa nhau hoặc để cho phép thành viên của Hội đồng giải chở người chơi khi họ đã hoặc sẽ chịu phạt gậy-và-khoảng-cách. Nếu người chơi chấp nhận di chuyển trên phương tiện cơ giới với sự cho phép của Hội đồng, Hội đồng có thể miễn phạt nếu đã cho phép người chơi được di chuyển trên phương tiện cơ giới trong tình huống đó nếu người chơi đã có yêu cầu trước đó. Ví dụ: nếu người chơi bị mất bóng cần quay lại khu vực phát bóng và đi xe của một tình nguyện viên khi không thành viên Hội đồng nào có mặt, Hội đồng có thể không xử phạt nếu họ đã cho phép chuyên chở người chơi nếu được yêu cầu. Tuy nhiên, khi Luật địa phương không cho phép sử dụng phương tiện cơ giới, nguyên tắc của Luật địa phương này là người chơi phải đi bộ trên toàn bộ sân, do đó sẽ không được phép chuyên chở người chơi về phía trước khi người chơi đó đã chưa đi bộ quãng đường đó. Ví dụ: nếu người chơi dừng lại để mua thức ăn sau khi đã phát bóng, rồi đi cùng xe với một tình nguyện viên về phía trước, đến vị trí bóng của họ, sẽ không thể miễn hình phạt theo Luật địa phương này. Luật địa phương mẫu G-6 “Trong vòng đấu, người chơi hoặc caddie không được phép di chuyển trên bất kỳ phương tiện cơ giới nào trừ khi được sự cho phép của Hội đồng trước hoặc sau khi sự việc diễn ra. [Người chơi nào đã hoặc sẽ chịu phạt gậy-và-khoảng-cách sẽ luôn được phép sử dụng phương tiện cơ giới để quay lại vị trí của cú đánh trước đó.] [Người chơi và caddie có thể di chuyển trên xe chuyên chở giữa các hố [hố] và hố [hố].] Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này: Người chơi nhận hình phạt chung ở mỗi hố mà họ vi phạm Luật địa phương này. Nếu vi phạm xảy ra giữa hai hố, hình phạt sẽ được áp dụng vào hố sau.”
G-7
Cấm sử dụng một số loại giày
Mục đích của luật. Để bảo vệ sân khỏi hư hỏng, Hội đồng có thể cấm sử dụng giày có đinh kim loại hoặc đinh theo kiểu truyền thống. Hội đồng cũng có thể cấm sử dụng giày có các tính năng khác mà có thể gây hư hỏng không mong muốn. Luật địa phương mẫu G-7 Luật 4.3a được điều chỉnh như sau: Trong vòng đấu, người chơi không được thực hiện cú đánh trong khi đang mang giày có:
  • Đinh giày kiểu truyền thống – nghĩa là đinh có một hoặc nhiều mũi nhọn, được thiết kế để cắm sâu vào mặt đất (không quan trọng đinh giày được làm từ kim loại, gốm sứ, nhựa hoặc một vật liệu khác); hoặc
  • Đinh giày được làm toàn bộ hoặc một phần từ kim loại, nếu phần kim loại đó sẽ tiếp xúc với mặt sân.
Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này – Xem hình phạt ở Luật 4.3.
G-8
Cấm hoặc hạn chế sử dụng các thiết bị phát âm thanh hoặc hình ảnh
Mục đích của luật. Luật 4.3a(4) cho phép người chơi sử dụng thiết bị phát âm thanh hoặc xem hình ảnh của các sự việc không liên quan đến giải đấu đang diễn ra. Nhưng Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương cấm sử dụng tất cả các thiết bị phát âm thanh và hình ảnh trong vòng đấu. Luật địa phương mẫu G-8 Luật 4.3a(4) được điều chỉnh như sau: Trong vòng đấu, người chơi không được nghe hoặc xem bất kỳ nội dung nào trên các thiết bị cá nhân phát âm thanh hoặc hình ảnh. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này – Xem hình phạt ở Luật 4.3.
G-9
Thay thế gậy bị gãy hoặc hư hỏng nặng
Mục đích của luật. Luật 4.1a(2) cho phép người chơi sửa chữa hoặc thay thế gậy đã bị hư hỏng trong vòng đấu, trừ trong trường hợp lạm dụng. Nhưng Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương để chỉ cho phép thay thế gậy trong các trường hợp mà gậy đã bị gãy hoặc hư hỏng nặng, không bao gồm gậy bị nứt. Luật địa phương mẫu G-9 Luật 4.1a(2) được điều chỉnh như sau: Luật 4.1a(2) được áp dụng trừ trường hợp gậy bị hư hỏng bởi người chơi hoặc caddie của họ trong vòng đấu (bao gồm khi cuộc chơi bị dừng theo Luật 5.7a) sẽ chỉ có thể được thay thế nếu nó bị “gãy hoặc hư hỏng nặng”. Đối với Luật địa phương này: Gậy bị “gãy hoặc hư hỏng nặng” khi:
  • Cán gậy bị gãy thành nhiều mảnh, vỡ hoặc cong (nhưng không phải khi cán gậy chỉ bị lõm/mẻ),
  • Khu vực tiếp xúc bóng của mặt gậy bị biến dạng một cách rõ ràng (nhưng không phải khi mặt gậy chỉ bị trầy xước hoặc nứt),
  • Đầu gậy bị biến dạng nhiều mà có thể thấy được (nhưng không phải khi đầu gậy chỉ bị nứt),
  • Đầu gậy bị rơi ra hoặc lỏng khỏi cán gậy, hoặc
  • Tay cầm (grip) bị lỏng.
Ngoại lệ: Mặt gậy hay đầu gậy không bị “gãy hoặc hư hỏng nặng” chỉ vì nó bị rạn nứt. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này – Xem Luật 4.1b.
G-10
Cấm sử dụng gậy dài hơn 46 inch
Mục đích. Để giới hạn chiều-dài-gậy-đo tối đa, Hội đồng có thể áp dụng một Luật địa phương hạn chế chiều dài tối đa của các gậy, trừ gậy gạt bóng, là 46 inch. Sai số cho phép khi đo đạc là 0.20 inch. Để biết thêm về hướng dẫn đo chiều dài gậy, xem Hình 3 Phần 2.1c của Luật về trang thiết bị. Chỉ khuyến khích sử dụng Luật địa phương này cho các giải đấu dành cho người chơi trình độ cao (các giải đấu chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư trình độ cao). Khi Luật địa phương này được áp dụng, sẽ không tồn tại ngoại lệ cho phép người chơi sử dụng gậy dài hơn 46 inch vì lý do thể chất. Luật địa phương mẫu G-10 “Khi thực hiện cú đánh, người chơi phải không được sử dụng gậy, trừ gậy gạt bóng, dài hơn 46 inch. Hình phạt khi thực hiện cú đánh với gậy vi phạm Luật địa phương này: Truất quyền thi đấu. Không bị phạt theo Luật địa phương này do chỉ có nhưng không thực hiện cú đánh với một gậy không thỏa yêu cầu về chiều dài nói trên.”
G-11
Hạn chế sử dụng bản đồ khu vực gạt bóng
Mục đíchLuật 4.3 và đặc biệt là Giải thích luật 4.3a/1 đưa ra giới hạn về kích thước và tỉ lệ của bản đồ khu vực gạt bóng. Nhưng để đảm bảo người chơi và caddie chỉ sử dụng mắt thường và cảm giác để đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng, Hội đồng có thể đưa ra thêm các hạn chế về việc sử dụng bản đồ khu vực gạt bóng bằng việc yêu cầu trong vòng đấu, người chơi chỉ sử dụng sách bản đồ sân đã được phê duyệt cho giải đấu đó. Luật địa phương này chỉ dành cho các giải đấu có tính cạnh tranh cao nhất, và chỉ khi mà Hội đồng có quy trình phê duyệt bản đồ sân. Khi áp dụng Luật địa phương này, Hội đồng có trách nhiệm phê duyệt bản đồ sân mà người chơi sẽ sử dụng, và bản đồ đó nên chứa các hình vẽ khu vực gạt bóng với các chi tiết tối thiểu (như là một số nơi có độ dốc cao hoặc nhiều tầng để thể hiện các phần khác nhau của khu vực gạt bóng). Người chơi và caddie có thể ghi chú thêm vào bản đồ sân đã được phê duyệt này để giúp họ đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng, miễn là các chú thích này được cho phép bởi Luật địa phương này. Luật địa phương mẫu G-11 "Luật 4.3a được điều chỉnh như sau: Trong vòng đấu, người chơi có thể sử dụng sách bản đồ sân (yardage book) đã được Hội đồng phê duyệt. Hạn chế này cũng được áp dụng cho các bản đồ khác về sân golf, bao gồm bản đồ vị trí cờ (hole location sheet). Một số hạn chế khác về các ghi chú, chú thích viết tay và các tài liệu khác mà người chơi có thể sử dụng để giúp họ đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng:
  • Các chú thích viết tay có thể được thêm vào sách bản đồ sân hoặc bản đồ vị trí cờ (đã được phê duyệt) trước hoặc trong vòng đấu bởi người chơi hoặc caddie của người chơi và chỉ có thể bao gồm các thông tin đươc thu thập bởi chính người chơi hoặc caddie đó.
  • Các chú thích viết tay chỉ có thể là các thông tin thu thập được qua kinh nghiệm cá nhân về sân golf hoặc qua việc quan sát trên truyền hình của người chơi hoặc caddie của người chơi, nhưng chỉ có thể là thông tin thu thập được:
    • Qua việc quan sát bóng được lăn hoặc được đánh (bởi chính người chơi, caddie hoặc một người khác), hoặc
    • Qua cảm nhận hoặc quan sát chung về khu vực gạt bóng của người chơi và caddie.
Các hạn chế phụ về chú thích viết tay hoặc các tài liệu khác này không được áp dụng cho các thông tin không có ích cho người chơi trong việc đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng (như là các thông tin được in ấn hoặc viết tay về kỹ thuật swing hoặc khoảng cách các gậy của người chơi). Trong vòng đấu, nếu người chơi sử dụng:
  • Sách bản đồ sân, các bản đồ khác về sân golf hoặc bản đồ vị trí cờ không được Hội đồng phê duyệt,
  • Sách bản đồ sân hoặc bản đồ vị trí cờ đã được phê duyệt nhưng chứa các thông tin hoặc chú thích viết tay mà đã được thu thập theo cách không được phép, hoặc
  • Các tài liệu khác có thể giúp đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng (một hoặc tất cả khu vực gạt bóng),
người chơi đã vi phạm Luật địa phương này. “Sử dụng” nghĩa là đã nhìn vào:
  • Bất kỳ trang nào của sách bản đồ sân hoặc các bản đồ khác về sân golf hoặc bản đồ vị trí cờ không được Hội đồng phê duyệt, hoặc
  • Một trong các điều sau để giúp người chơi hoặc caddie đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng:
    • Một trang trong một sách bản đồ sân hoặc bản đồ vị trí cờ đã được phê duyệt nhưng chứa thông tin hoặc chú thích viết tay được thu thập theo cách không được phép, hoặc
    • Bất kỳ tài liệu nào khác.
Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này:
  • Hình phạt cho vi phạm đầu tiên: Hình phạt chung.
  • Hình phạt cho vi phạm thứ hai: Truất quyền thi đấu.
Hướng dẫn bổ sung: bấm vào đây.
G-12
Cấm sử dụng tài liệu giúp đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng
Mục đíchGiải thích luật 4.3a/1 giới hạn kích thước và tỉ lệ của bản đồ khu vực gạt bóng và các tài liệu số hoặc điện tử tương tự mà người chơi có thể sử dụng trong vòng đấu để giúp đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng, nhằm đảm bảo việc đọc hiểu khu vực gạt bóng là một phần quan trọng trong kỹ năng gạt bóng của người chơi. Tuy nhiên, để nhấn mạnh, đề cao hơn sự phán đoán, kỹ năng và khả năng của người chơi trong việc đọc hướng đánh trên khu vực gạt bóng, Hội đồng có thể cấm sử dụng bất kỳ tài liệu hỗ trợ nào. Luật địa phương mẫu G-12 "Luật 4.3a được điều chỉnh như sau: Trong vòng đấu, người chơi không được sử dụng bất kỳ tài liệu số, điện tử, in ấn hoặc viết tay nào để giúp đọc hướng đánh đối với các cú đánh được thực hiện trên khu vực gạt bóng. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này:
  • Hình phạt cho vi phạm đầu tiên: Hình phạt chung.
  • Hình phạt cho vi phạm thứ hai: Truất quyền thi đấu.
Hướng dẫn thêm: Xem hướng dẫn chi tiết về Luật địa phương mẫu G-12 ở đây.
H

Quy định người nào có thể hỗ trợ hoặc cho người chơi lời khuyên

H-1
Cấm hoặc bắt buộc sử dụng caddie; Các hạn chế đối với caddie
Mục đích của luật. Hội đồng có thể điều chỉnh Luật 10.3 để:
  • Cấm việc sử dụng caddie,
  • Yêu cầu người chơi phải sử dụng một caddie, hoặc
  • Giới hạn cách lựa chọn caddie của người chơi (như yêu cầu caddie phải là một người chơi golf nghiệp dư, không phải là phụ huynh, họ hàng hoặc một người chơi khác trong giải đấu đó, v.v.).
Luật địa phương mẫu H-1.1 Khi không được sử dụng caddie: “Người chơi không được sử dụng caddie trong vòng đấu. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này
  • Người chơi nhận hình phạt chung ở mỗi hố mà họ có caddie.
  • Nếu vi phạm diễn ra hoặc tiếp diễn giữa hai hố, người chơi nhận hình phạt chung ở hố sau."
Luật địa phương mẫu H-1.2 Nếu có hạn chế về việc ai có thể là caddie: “Người chơi không được sử dụng [mô tả những caddie bị cấm, như là phụ huynh hoặc người giám hộ] là caddie của họ trong vòng đấu. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này:
  • Người chơi nhận hình phạt chung ở mỗi hố mà họ được hỗ trợ bởi một caddie như thế.
  • Nếu vi phạm diễn ra hoặc tiếp diễn giữa hai hố, người chơi nhận hình phạt chung ở hố sau.
Luật địa phương mẫu H-1.3 Khi người chơi phải sử dụng một caddie: “Người chơi phải có một caddie trong vòng đấu. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này: Người chơi nhận hình phạt chung ở mỗi hố mà họ không có caddie.”
H-2
Người cho lời khuyên trong thi đấu đồng đội
Mục đích của luật. Theo Luật 24.4a, trong một giải đấu đồng đội, gồm các giải đồng thời thi đấu đồng đội và cá nhân, Hội đồng có thể cho phép mỗi đội đề cử một hoặc hai người để cho lời khuyên đến các thành viên trong đội khi họ đang chơi trên sân:
  • Phải xác định và thông báo “Người cho lời khuyên/tham vấn viên” cho Hội đồng trước khi họ có thể cho lời khuyên.
  • Hội đồng có thể giới hạn các lời khuyên mà người đó có thể cho (như không được chỉ hướng đánh khi bóng ở trên khu vực gạt bóng).
  • Hội đồng có thể không cho người cho lời khuyên đi trên một số khu vực trên sân (như là khu vực gạt bóng).
  • Thường thì Hội đồng không cho phép một đội có hai người cho lời khuyên, trừ khi tính chất của giải đấu cho phép việc đó, như là trong giải đấu mà không được có caddie hoặc khi mỗi đội có nhiều người chơi.
  • Hội đồng nên xác định hình phạt hợp lý khi người cho lời khuyên vi phạm luật. Có thể là hình phạt cho người chơi đã được hỗ trợ theo cách không được phép, hoặc là một hình phạt cho cả đội, ví dụ như cộng hai gậy phạt vào số gậy tổng của đội trong giải đấu gậy.
Luật địa phương mẫu H-2 “Mỗi đội có thể có [một/hai] “người cho lời khuyên/ tham vấn viên” để các người chơi trong đội có thể hỏi và nhận lời khuyên từ người đó trong vòng đấu. Đội phải xác định và thông báo người cho lời khuyên này cho Hội đồng trước khi bất kỳ người chơi nào trong đội bắt đầu vòng đấu của họ. [Đội có thể thay đổi người chơi lời khuyên trong vòng đấu, nhưng phải thông báo với Hội đồng.] [Người cho lời khuyên không được chỉ hướng đánh [hoặc đi trên khu vực gạt bóng] khi bóng của một người chơi trong đội đang ở trên khu vực gạt bóng đó. Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 10.2.]”
H-3
Hạn chế việc ai có thể là đội trưởng
Mục đích của luật. Theo Luật 24.3, trong giải đấu đồng đội, Hội đồng có thể quy định ai có thể là đội trưởng và các hành xử của đội trưởng theo Luật 24.4a. Khi được phép có người cho lời khuyên (xem Luật địa phương mẫu H-2), đội trưởng cũng có thể là một người cho lời khuyên. Luật địa phương mẫu H-3 “Đội trưởng phải là [yêu cầu, như là thành viên của cùng một câu lạc bộ].”
H-4
Xem người cho lời khuyên là một thành viên của phe
Mục đích của luật. Hội đồng có thể quy định người cho lời khuyên có tình trạng giống như một thành viên của phe để hành động của họ có thể được chi phối bởi luật golf (như khi người chơi sẽ nhận phạt theo Luật 9.4 nếu người chơi lời khuyên làm di chuyển bóng của người chơi). Luật địa phương mẫu H-4 “Người cho lời khuyên có tình trạng giống như một thành viên của phe đối với các thành viên khác của đội.”
H-5
Lời khuyên: Thành viên chung đội trong cùng một nhóm đấu
Mục đích của luật. Theo Luật 24.4c, trong đấu gậy, khi điểm số vòng đấu của người chơi chỉ được tính là một phần của điểm số của đội, Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương cho phép các thành viên chung đội trong cùng một nhóm đấu được cho lời khuyên lẫn nhau nếu họ không phải là đồng đội của nhau. Luật địa phương mẫu H-5 Luật 10.2 được điều chỉnh như sau: Khi các người chơi trong cùng một đội thi đấu trong cùng nhau trong một nhóm đấu, họ có thể cho và hỏi lời khuyên lẫn nhau trong vòng đấu đó.”
I

Quy định khi nào và nơi nào người chơi có thể đánh tập

I-1
Đánh tập trước vòng đấu
Mục đích của luật. Luật 5 quy định việc đánh tập trên sân trước, trong và giữa các vòng đấu của giải đấu:
  • Đấu đối kháng (Luật 5.2a). Các người chơi trong trận đấu có thể đánh tập trên sân trước hoặc giữa các vòng đấu, do họ sẽ có cơ hội như nhau để làm việc này vì họ sẽ thi đấu với nhau cùng lúc.
  • Đấu gậy (Luật 5.2b). Các người chơi không được đánh tập trên sân trước vòng đấu vào ngày thi đấu, do họ không có cơ hội như nhau để làm việc này vì họ thường sẽ chơi ở các nhóm khác nhau và có giờ xuất phát khác nhau. Tuy nhiên, họ được phép đánh tập vào ngày thi đấu sau khi đã hoàn thành cuộc chơi của ngày hôm đó.
  • Đấu đối kháng và đấu gậy (Luật 5.5b). Sau khi hoàn thành hố và trước khi bắt đầu hố tiếp theo, người chơi có thể gạt bóng hoặc chíp bóng trên hoặc gần khu vực gạt bóng của hố vừa hoàn thành, khu vực phát bóng của hố tiếp theo hoặc bất kỳ sân tập gạt bóng nào.
Nhiều vấn đề cần được xem xét về việc có cho phép đánh tập trên sân hay không, như là sự công bằng cho tất cả người chơi, khả năng ảnh hưởng đến việc thiết lập kỹ thuật sân và các hoạt động bảo dưỡng của sân, thời gian trước và giữa các vòng đấu, hoặc khi những người chơi được khuyến khích chơi trên sân bên ngoài giải đấu đó. Với các lý do này, cũng như các lý do khác, Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương để điều chỉnh các quy định nói trên bằng cách cho phép hoặc cấm việc đánh tập hoặc hạn chế về mặt thời gian, địa điểm và cách đánh tập. Luật địa phương mẫu I-1.1 Luật 5.2a được điều chỉnh như sau: Người chơi không được phép đánh tập trên sân thi đấu trước hoặc giữa các vòng đấu. [Hoặc nếu người chơi được phép đánh tập một cách hạn chế: Mô tả các hạn chế đó và thời gian, địa điểm và cách mà người chơi có thể đánh tập trên sân.] Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt cho vi phạm đầu tiên: Hình phạt chung (áp dụng vào hố đầu tiên của người chơi). Hình phạt cho vi phạm thứ hai: Truất quyền thi đấu." Luật địa phương mẫu I-1.2 Luật 5.2b được điều chỉnh như sau: Người chơi được phép đánh tập trên sân thi đấu trước hoặc giữa các vòng đấu." [Hoặc nếu người chơi được phép đánh tập một cách hạn chế: Mô tả các hạn chế đó và thời gian, địa điểm và cách mà người chơi có thể đánh tập trên sân.] [Hoặc nếu người chơi bị cấm đánh tập trên sân thi đấu cả trước và giữa các vòng đấu: “Người chơi không được phép đánh tập trên sân thi đấu trước hoặc giữa các vòng đấu.]
I-2
Cấm đánh tập trên hoặc gần khu vực gạt bóng trước đó
Mục đích của luật. Luật 5.5b cho phép người chơi, khi đang ở giữa hai hố, tập gạt bóng hoặc chíp bóng trên hoặc gần khu vực gạt bóng của hố vừa hoàn thành. Tuy nhiên, nếu việc này có thể gây ảnh hưởng đến tốc độ thi đấu hoặc vì lý do khác (như ngăn người chơi tập gạt bóng đến các vị trí cờ của những ngày tiếp theo), Hội đồng có thể cấm việc đánh tập đó. Hội đồng cũng có thể cấm người chơi không được gạt bóng hoặc chíp bóng trên hoặc gần bất kỳ sân tập gạt bóng nào khi đang ở giữa hai hố. Luật địa phương mẫu I-2 Luật 5.5b được điều chỉnh như sau: Giữa hai hố, người chơi không được phép:
  • Đánh tập trên hoặc gần khu vực gạt bóng của hố vừa hoàn thành, hoặc
  • Kiểm tra bề mặt của khu vực gạt bóng đó bằng cách chà xát bề mặt khu vực gạt bóng hoặc lăn bóng.
  • [Thực hiện cú đánh tập ở trên hoặc gần bất kỳ sân tập gạt bóng nào.]
Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung."
J

Quy trình khi thời tiết xấu và tạm dừng chơi

J-1
Các phương pháp tạm dừng chơi và tiếp tục chơi
Mục đích của luật. Luật 5.7b yêu cầu người chơi phải dừng chơi ngay lập tức nếu Hội đồng cho dừng chơi ngay lập tức. Hội đồng nên sử dụng phương pháp riêng biệt để báo cho người chơi về việc tạm dừng ngay lập tức. Các tín hiệu sau đây thường được sử dụng, Hội đồng được khuyến khích sử dụng các tín hiệu này khi có thể: Dừng ngay lập tức: Một hồi còi dài.
Dừng chơi thông thường: Ba hồi còi ngắn liên tục.
Tiếp tục thi đấu: Hai hồi còi ngắn liên tục.
Luật địa phương mẫu J-1 “Việc dừng chơi do tình huống nguy hiểm sẽ được báo hiệu bằng [tín hiệu sử dụng]. Việc dừng chơi do các lý do khác sẽ được báo hiệu bằng [tín hiệu sử dụng]. Trong tất cả trường hợp, việc tiếp tục chơi lại sẽ được báo hiệu bằng [tín hiệu sử dụng]. Xem Luật 5.7b.”
J-2
Loại bỏ nước đọng tạm thời
Mục đích của luật. Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương quy định các hành động thích hợp để loại bỏ nước đọng tạm thời trên khu vực gạt bóng bởi một thành viên Hội đồng, một người được Hội đồng chỉ định (như là một nhân viên bảo dưỡng), hoặc người chơi. Luật địa phương mẫu J-2 “Nếu bóng của người chơi nằm trên khu vực gạt bóng và bị ảnh hưởng bởi nước đọng tạm thời trên bề mặt khu vực gạt bóng đó, người chơi có thể:
  • Thực hiện giải thoát theo Luật 16.1d, hoặc
  • Được gạt nước trên hướng đánh của họ.
  • [Được gạt nước trên khu vực gạt bóng khi bóng ở trong bất kỳ khu vực sân nào gần khu vực gạt bóng đó, nhưng chỉ khi được Hội đồng chấp thuận.]
Việc gạt nước nói trên cần được thực hiện vuông góc với hướng đánh và kéo dài một khoảng hợp lý ra phía sau hố cờ (ít nhất một chiều dài gậy đo) và chỉ được thực hiện bởi [người có thể làm việc này, như là nhân viên bảo dưỡng]."
K

Quy định tốc độ chơi

Để khuyến khích và đẩy mạnh việc chơi nhanh, Hội đồng nên đưa ra một Luật địa phương về Quy định tốc độ chơi. Các Luật địa phương mẫu sau đây cung cấp các ví dụ về cách mà Hội đồng có thể giải quyết vấn đề tốc độ chơi. Hội đồng có thể áp dụng các Luật địa phương khác thích hợp với nguồn lực có sẵn của họ. Do đó, đây không phải là danh sách đầy đủ của các Luật địa phương này. Có thể tham khảo quy định mẫu ở trang RandA.org.
K-1
Thời gian tối đa cho toàn bộ hoặc một phần của vòng đấu
Mục đích của luật. Ở các giải đấu chỉ có ít hoặc không có trọng tài trên sân, Hội đồng có thể đưa ra Luật địa phương đơn giản để quy định giới hạn thời gian thích hợp để người chơi hoàn thành vòng đấu và/hoặc một vài hố. Các giới hạn thời gian này sẽ khác nhau tùy thuộc vào số lượng các nhóm đấu và thể thức thi đấu. Nếu một nhóm vượt quá giới hạn thời gian này và bị chậm giờ, mỗi người chơi trong nhóm đó sẽ bị phạt. Luật địa phương mẫu K-1 “Nếu một nhóm hoàn thành vòng đấu [hoặc xác định một vài hố nào đó] trong nhiều hơn [ví dụ 3 giờ 45 phút] tính từ thời điểm xuất phát [nêu rõ nếu khác], tất cả người chơi trong nhóm đó sẽ nhận một gậy phạt [hoặc xử lý khác].”
K-2
Quy định tốc độ chơi theo từng hố hoặc từng cú đánh
Mục đích của luật. Ở các giải đấu có đủ trọng tài trên sân, Hội đồng có thể áp dụng Quy định tốc độ chơi với thời gian cho phép ở mỗi hố, và thời gian tối đa cho mỗi cú đánh nếu người chơi vượt quá thời gian cho phép ở mỗi hố. Luật địa phương mẫu bên dưới là ví dụ của quy định này trong một giải đấu gậy với mỗi người chơi được bấm giờ khi nhóm của họ bị chậm giờ. Xem Luật địa phương mẫu K-3 quy định tốc độ chơi với cách xử phạt khác. Các lựa chọn khi chơi chậm Nhóm đấu sẽ được xem là “chơi chậm” nếu tổng thời gian thi đấu đến thời điểm đó nhiều hơn tổng thời gian cho phép của các hố đã hoàn thành và bị nhóm ngay phía trước bỏ cách xa hơn khoảng thời gian xuất phát giữa các nhóm. Khi xác định một nhóm có chơi chậm, quy định cần nêu rõ khi nào nhóm được xem là chơi chậm trong tương quan với nhóm ngay phía trước. Quy định trong Luật địa phương mẫu K-2 định nghĩa chơi chậm là khi nhóm bị nhóm ngay phía trước bỏ cách xa hơn khoảng thời gian xuất phát giữa các nhóm. Hoặc theo cách khác, định nghĩa chơi chậm có thể dựa vào vị trí trên sân của nhóm so với nhóm ngay phía trước, như là:
  • Tất cả người chơi trong nhóm ngay phía trước đã phát bóng xong ở hố tiếp theo trước khi nhóm đến khu vực phát bóng của một hố par-3, hoặc
  • Trống một hố par-4 hoặc par-5 trước khi tất cả người chơi trong nhóm đã hoàn thành cú phát bóng của họ.
Thời gian thực hiện cú đánh Khi nhóm đang bị bấm giờ, mỗi người chơi phải thực hiện cú đánh của họ trong một khoảng thời gian nhất định. Hội đồng có thể yêu cầu khoảng thời gian giống nhau cho tất cả cú đánh hoặc có thể cho nhiều thời gian hơn đối với người chơi đánh đầu tiên từ một khu vực nào đó, như là khu vực phát bóng hoặc khu vực gạt bóng. Chậm giờ nhiều lần trong các vòng đấu của giải đấu gậy Ở các giải đấu gậy có nhiều vòng đấu, Hội đồng có thể tính dồn các lần chậm giờ cho toàn bộ giải đấu đó. Ví dụ: người chơi bị chậm giờ theo Luật địa phương này ở vòng đầu tiên, lần chậm giờ tiếp theo ở vòng đấu sau đó sẽ được xem là lần chậm giờ thứ hai và theo đó sẽ bị xử phạt đối với lần chậm giờ thứ hai. Không hợp lý khi tính dồn các lần chậm giờ từ vòng đấu gậy sang vòng đấu đối kháng hoặc từ một trận đấu đối kháng sang một trận đối kháng khác trong một giải đấu đối kháng. Luật địa phương mẫu K-2 Thời gian tối đa cho phép Thời gian tối đa cho phép là thời gian tối đa mà Hội đồng quy định nhóm đấu cần để hoàn thành vòng đấu, được thể hiện bằng thời gian mỗi hố và thời gian tổng, bao gồm toàn bộ thời gian liên quan đến cuộc chơi, như là thời gian để xử lý tình huống luật hay thời gian đi bộ giữa các hố. Thời gian tối đa để hoàn thành 18 hố ở sân [tên sân] là [tổng thời gian, ví dụ như 4 giờ 5 phút]. Quy trình sau đây sẽ chỉ được áp dụng nếu một nhóm “chơi chậm”. Định nghĩa chơi chậm Nhóm đấu đầu tiên và bất kỳ nhóm nào sau khoảng thời gian chờ (starter’s gap) sẽ được xem là “chơi chậm” nếu ở bất kỳ thời điểm nào trong vòng đấu, nhóm có tổng thời gian thi đấu đến thời điểm đó nhiều hơn tổng thời gian cho phép của các hố đã hoàn thành. Các nhóm tiếp theo sẽ được xem là chơi chậm nếu họ [cách xác định nhóm chậm giờ khi so với nhóm ngay phía trước (xem ví dụ ở trên)] và [vượt tổng thời gian cho phép cho đến thời điểm đó]. Quy trình khi nhóm chơi chậm
  1. Trọng tài sẽ theo dõi và quyết định bấm giờ nhóm “chơi chậm”, có tính đến các tình huống vừa xảy ra như là thời gian xử lý tình huống luật kéo dài, bị mất bóng, bóng không đánh được v.v. Khi quyết định bấm giờ, mỗi người chơi trong nhóm sẽ bị bấm giờ riêng lẻ và trọng tài sẽ thông báo đến mỗi người chơi về việc họ “chơi chậm” và đang bị bấm giờ. Trong một vài tình huống đặc biệt, chỉ một hoặc hai người chơi (thay vì tất cả) trong nhóm ba người có thể bị bấm giờ.
  2. Thời gian tối đa cho mỗi cú đánh là [ví dụ như 40 giây]. [Sẽ có thêm 10 giây cho người chơi đầu tiên thực hiện cú đánh: a) phát bóng ở hố par 3; b) tiếp cận lên green; và c) chip or putt.] Bắt đầu tính giờ khi người chơi có đủ thời gian để tiếp cận bóng, đến lượt đánh của họ và họ có thể đánh bóng mà không bị ảnh hưởng hay gây xao lãng. Thời gian xác định khoảng cách và chọn gậy sẽ được tính vào thời gian của cú đánh. Trên khu vực gạt bóng, bắt đầu tính giờ khi người chơi đã có đủ thời gian hợp lý để nhấc, làm sạch và đặt lại bóng, sửa chữa các vết hư hỏng ảnh hưởng đến hướng đánh và nhặt các vật thể tự nhiên rời nằm trên hướng đánh. Thời gian dùng để nhìn hướng đánh từ phía sau cờ hay sau bóng sẽ được tính vào thời gian của cú đánh. Bắt đầu tính giờ khi trọng tài xác định đã đến lượt đánh của người chơi và họ có thể đánh bóng mà không bị ảnh hưởng hay gây xao lãng. Kết thúc bấm giờ khi nhóm bắt kịp thời gian (không còn chơi chậm nữa) và người chơi sẽ được thông báo về việc đó.
Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này:
  • Chậm giờ lần 1: Cảnh cáo.
  • Chậm giờ lần 2: Một gậy phạt.
  • Chậm giờ lần 3: Hình phạt chung, ngoài hình phạt cho lần chậm giờ thứ 2.
  • Chậm giờ lần 4: Truất quyền thi đấu.
Người chơi sẽ chỉ bị tính là chậm giờ, vi phạm Luật địa phương này, nếu họ đã vượt quá thời gian tối đa cho phép của mỗi cú đánh khi đang bị bấm giờ. Người chơi sẽ chỉ bị phạt cho lần chậm giờ lần tiếp theo sau khi họ đã được thông báo về lỗi chậm giờ ở lần trước đó. Quy trình khi bị chậm giờ nhiều lần trong cùng một vòng đấu Nếu một nhóm bị “chậm giờ” nhiều lần trong một vòng đấu, quy trình ở trên sẽ được áp dụng ở mỗi lần chậm giờ. Lỗi chậm giờ và hình phạt trong cùng một vòng đấu sẽ được tính dồn cho đến khi kết thúc vòng đấu đó. Các lựa chọn khác cho Luật địa phương mẫu K-2 Sau đây là các lựa chọn khác, không có trong Luật địa phương mẫu K-2 ở trên, nhưng Hội đồng có thể đưa vào:
  • Điều chỉnh định nghĩa chậm giờ để quy định là người chơi phải được cảnh cáo chính thức trước khi bị bấm giờ, ví dụ như cho người chơi ít nhất một hố để cải thiện vị trí của họ.
  • Điều chỉnh quy định khi nhóm bị chậm giờ để cho người chơi một khoảng thời gian hợp lý để tính khoảng cách cú đánh của họ trước khi bắt đầu bấm giờ.
  • Điều chỉnh quy định khi bị chậm giờ nhiều lần trong cùng vòng đấu để tính dồn các lỗi chậm giờ cho đến cuối giải đấu gậy.
  • Có thể quy định là ở bất kỳ thời điểm nào, nếu một người chơi bị phát hiện (bởi trọng tài) đã thực hiện cú đánh trong thời gian nhiều hơn một con số nào đó (ví dụ như 120 giây), họ sẽ được thông báo về cú đánh quá giờ đó và sẽ bị bấm giờ, cho dù nhóm của họ vẫn chưa chậm giờ.
K-3
Điều chỉnh cách xử phạt của quy định tốc độ chơi
Mục đích của luật. Hội đồng có thể điều chỉnh cách xử phạt vi phạm quy định tốc độ chơi, với một gậy phạt cho lần chậm giờ đầu tiên. Hội đồng cũng có thể áp dụng hình phạt chung cho lần chậm giờ đầu tiên, thay vì một gậy phạt. Luật địa phương mẫu K-3 “Cách xử phạt trong Luật địa phương mẫu K-2 được điều chỉnh như sau: Hình phạt khi vi phạm Luật địa phương này:
  • Chậm giờ lần 1: Một gậy phạt.
  • Chậm giờ lần 2: Hình phạt chung, ngoài hình phạt cho lần chậm giờ thứ 1.
  • Chậm giờ lần 3: Truất quyền thi đấu."
L

Trách nhiệm với bảng điểm

L-1
Điều chỉnh hình phạt theo Luật 3.3b(2) khi không có chứng thực của người chơi hoặc người ghi điểm
Mục đích của luật. Luật 3.3b(2) xử phạt truất quyền thi đấu khi điểm số hố trên bảng điểm không được chứng thực bởi người chơi, người ghi điểm hoặc cả hai. Nhưng trong các trường hợp mà Hội đồng cho là thích hợp, Hội đồng có thể thay đổi hình phạt này trở thành hai gậy. Luật địa phương mẫu L-1 Luật 3.3b(2) được điều chỉnh như sau: Nếu người chơi nộp bảng điểm mà không có chứng thực của người chơi, người ghi điểm hoặc cả hai, người chơi sẽ nhận hình phạt chung (hai gậy phạt). Hình phạt này sẽ được áp dụng vào hố cuối cùng trong vòng đấu đó của người chơi.”
L-2
Yêu cầu người chơi chịu trách nhiệm về điểm chấp trên bảng điểm
Mục đích của luật. Luật 3.3b(4) không bắt buộc phải thể hiện điểm chấp của người chơi trên bảng điểm, Hội đồng có trách nhiệm tính số gậy chấp và điểm net của người chơi ở giải đấu đó. Nhưng trong một số trường hợp, Hội đồng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tính điểm chấp của người chơi do không có hệ thống máy tính để giúp quản lý giải đấu hoặc khi Hội đồng không thể tiếp cận dữ liệu về điểm chấp của người chơi. Trong các trường hợp đó, Hội đồng có thể chọn điều chỉnh Luật 3.3b(4) để yêu cầu người chơi ghi điểm chấp trên bảng điểm. Tùy vào hệ thống quản lý điểm chấp địa phương, Hội đồng có thể quy định ghi điểm chấp nào (handicap index, handicap sân, handicap thi đấu …) trên bảng điểm. Luật địa phương mẫu L-2 Luật 3.3b(4) được điều chỉnh như sau: Người chơi có trách nhiệm ghi điểm chấp [xác định loại điểm chấp, ví dụ như handicap index, handicap sân, handicap thi đấu] lên bảng điểm. Một khi Hội đồng nhận bảng điểm từ người chơi vào cuối vòng đấu, Hội đồng có trách nhiệm:
  • Cộng điểm của người chơi, và
  • Áp dụng số gậy chấp của người chơi để tính điểm net.
Nếu người chơi nộp bảng điểm có điểm chấp không chính xác:
  • Điểm chấp trên bảng điểm cao hơn thực tế hoặc không ghi điểm chấp. Nếu việc này ảnh hưởng đến số gậy chấp người chơi nhận, người chơi bị truất quyền thi đấu từ giải đấu có tính gậy chấp đó. Nếu không ảnh hưởng, sẽ không bị phạt.
  • Điểm chấp trên bảng điểm thấp hơn thực tế. Sẽ không bị phạt và điểm net của người chơi tính theo điểm chấp thấp hơn đó được giữ nguyên.
M

Luật địa phương mẫu cho người chơi khuyết tật

M-1
Đặt bóng đối với người chơi sử dụng xe lăn
Mục đích của luật. Tùy vào chức năng của một số xe lăn mà đôi khi người chơi không thể vào thế đứng (tùy vào vị trí của xe lăn) một cách nhanh chóng và giống nhau tính từ vị trí của bóng nằm yên. Hội đồng có thể áp dụng Luật địa phương này để hỗ trợ người chơi sử dụng xe lăn, theo đó họ không phải điều chỉnh vị trí xe nhiều lần để có thể vào vị trí mong đợi. Có thể áp dụng Luật địa phương này ở bất kỳ đâu trên sân, bao gồm khu vực gạt bóng, khu vực chung, khu vực phạt và bẫy cát. Luật địa phương này không nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến các quyết định liên quan đến sự an toàn của người chơi sử dụng xe lăn (như khi định vị xe lăn ở nơi có độ dốc cao). Trong các tình huống đó, có thể áp dụng các lựa chọn giải thoát khác (như là giải thoát bóng không đánh được theo Luật 19 hoặc khu vực phạt theo Luật 17). Luật địa phương mẫu M-1 “Trước khi thực hiện cú đánh, người chơi sử dụng xe lăn có thể thực hiện giải thoát không phạt bằng cách đặt bóng gốc hoặc một bóng khác ở trong và đánh bóng từ trong khu vực giải thoát sau:
  • Điểm tham chiếu: Vị trí của bóng gốc.
  • Kích thước của khu vực giải thoát đo từ điểm tham chiếu: 6 inch từ điểm tham chiếu, có thể gần cờ hơn, nhưng với các giới hạn sau:
  • Giới hạn của khu vực giải thoát:
    • Phải ở trong cùng khu vực sân, và
    • Phải không ở nơi có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng chiều cao cỏ fairway trừ khi bóng gốc đã đến nằm yên trong khu vực chung, ở nơi có chiều cao cỏ thấp hơn hoặc bằng chiều cao cỏ fairway (ví dụ, bóng ở trong khu cỏ cao không thể được đặt trên fairway).
Khi thực hiện giải thoát theo Luật địa phương này, người chơi được phép đặt bóng nhiều lần (như khi lần đặt đầu tiên ở xa thế đứng của họ). Ngoại lệ - Không được giải thoát khi không hợp lý. Không được giải thoát theo Luật địa phương này khi việc đánh bóng từ nơi nó nằm là không hợp lý (như khi bóng nằm yên trong một bụi cây, ở vị trí mà người chơi không thể thực hiện cú đánh). Hình phạt khi đánh bóng sai vị trí vi phạm Luật địa phương này: Hình phạt chung theo Luật 14.7a."
M-2
Giải thoát không phạt khỏi một số bẫy cát đối với người sử dụng xe lăn
Mục đích của luật. Thiết kế và hình dạng của một vài bẫy cát khiến cho việc đi vào/đi ra khỏi bẫy cát đó rất khó khăn hoặc gần như không thể đối với người chơi sử dụng xe lăn. Luật 25.4n điều chỉnh Luật 19.3, theo đó khi thực hiện giải thoát bóng không đánh được trong một bẫy cát, người chơi sử dụng xe lăn có thể thực hiện giải thoát trên-đường-thẳng-kéo-lùi-về-sau ra khỏi bẫy cát đó với một gậy phạt. Tuy nhiên, trong giải đấu chỉ gồm những người chơi sử dụng xe lăn, nếu thấy thích hợp, Hội đồng có thể cho giải thoát không phạt khỏi một số bẫy cát. Luật địa phương mẫu M-2 “Đối với người chơi sử dụng xe lăn, [xác định một số bẫy cát hoặc tất cả bẫy cát trên sân] là mặt sân đang sửa chữa trong khu vực chung. Người chơi có thể thực hiện giải thoát theo Luật 16.1b.”
M-3
Ngoại lệ đặc biệt đối với Luật 10.1b (Neo gậy) đối với người chơi bị mất điều hòa vận động (ataxia) hoặc rối loạn chức năng vận động (athetosis)
Mục đích của luật. Người chơi bị mất điều hòa vận động hoặc rối loạn chức năng vận động do co giật và/hoặc cơ thể run rẩy mạnh sẽ gần như không thể gạt bóng mà không cần hỗ trợ để đứng vững với một điểm neo. Các tình trạng này, với triệu chứng là các cử động của cơ thể, sẽ có ảnh hưởng lớn đến việc gạt bóng. Luật địa phương này cho phép Hội đồng miễn cho những người chơi đó khỏi vi phạm Luật 10.1b (Neo gậy) khi thỏa ba điều kiện sau:
  • Người chơi có thẻ thành viên của WR4GD hoặc EDGA Access,
  • Người chơi bị mất điều hòa vận động hoặc rối loạn chức năng vận động, và
  • Hội đồng xác định rằng đã có bằng chứng rõ ràng là các tình trạng này có ảnh hưởng lớn và tiêu cực đến khả năng gạt bóng của người chơi (ví dụ: người chơi thường phải mất 50 hoặc nhiều hơn cú gạt cho mỗi vòng đấu).
Luật địa phương mẫu M-3 “Khi Hội đồng xác định rằng đã có bằng chứng rõ ràng là khả năng gạt bóng của người chơi bị ảnh hưởng lớn và tiêu cực bởi tình trạng mất điều hòa vận động hoặc rối loạn chức năng vận động, và người chơi là người có thẻ thành viên WR4GD hoặc EDGA Access, người chơi đó sẽ được miễn hình phạt theo Luật 10.1b (Neo gậy).”
XEM THÊM
Phần 1Vai trò của Hội đồng
Luật golf định nghĩa Hội đồng là người hoặc nhóm người chịu trách nhiệm về một giải đấu hoặc sân. Hội đồng rất quan trọng trong môn golf. Hội đồng có trách nhiệm điều hành một giải đấu hoặc cuộc chơi hàng ngày ở sân golf và luôn tuân thủ tinh thần của luật golf. Phần này của Hướng dẫn luật golf chính thức sẽ cung cấp các hướng dẫn cho Hội đồng nhằm thực hiện các công tác nói trên. Các nhiệm vụ của Hội đồng có thể gói gọn trong một giải đấu nào đó hoặc cho cuộc chơi hàng ngày ở sân golf.
Đọc phần